Trong đêm ba mươi anh cùng em đi rong chơi, chờ đón giao thừa chờ lúc đông tàn và xuân lại tới. Em co vai nép sát trong đôi tay anh vì pháo bên đường bỗng vang trời chào mừng. Dìu em bước về sao vẫn còn ngẩng ngơ. Đường vương pháo hồng cho anh càng ước mơ. Mơ ngày cưới luôn có em bên anh đời đời. Ơi ngày ấy có xa không người tình ơi. Xuân tơ non nên ước mơ chưa đan thành lời. Trong đêm vui trao em nụ hôn đầu năm.
Tay em trong tay giao thừa đêm nay như thơ. Tình với duyên thề cùng với em là mùa xuân rạng rỡ. Chung quanh ta phố xá như đang đông vui. Và pháo giao thừa vẫn vang trời mừng xuân.
Bài cảm nhận viết bằng 2 cách khác nhau
[Part I] Anh & Em & giao thừa
Sáng sớm dậy trời se se lạnh, chỉ muốn cuốn mình mãi trong chăn. Mùa xuân đến. Thật nhanh, 365 ngày đã trôi qua. Nhà nhà sửa sang dọn dẹp chuẩn bị đón mừng Tết nguyên đán. Giao thừa đêm nay anh cùng em hoà vào dòng người đón xuân sang ngoài phố. Vang lên đâu đây bài ca “rong chơi đêm giao thừa” như nói hộ nỗi lòng của anh trước ngày xuân.
Đêm nay gió lùa lạnh lẽo hay ấm áp khi: “anh cùng em đi rong chơi, chờ đón giao thừa chờ lúc đông tàn và xuân lại tới. Em co vai nép sát trong đôi tay anh” Còn gì nồng ấm hơn khi nắm chặt tay người yêu vào lúc giao mùa thế này. Bàn tay em đan vào tay anh, một điểm tựa vững chắc, toả hơi ấm tình yêu.
Em ơi có biết chăng khi “Dìu em bước về sao vẫn còn ngẩng ngơ. Đường vương pháo hồng cho anh càng ước mơ. Mơ ngày cưới luôn có em bên anh đời đời. Ơi ngày ấy có xa không người tình ơi.” Nhìn bước chân em qua cổng mà lòng anh còn quyến luyến, sao giây phút ta bên nhau ngắn ngủi quá đi thôi! Em có thấy không, hai bên đường chúng ta đi có rất nhiều lễ cưới. Nhìn các cô dâu chú rể đang cười hạnh phúc bên nhau trong ngày tân hôn, lòng anh ao ước. Giá như, giá như đó là ngày cưới của đôi ta. Điệu tango của bài hát như nhịp đập trái tim của chàng trai khi nắm tay người yêu đón mừng xuân sang, trong lòng rộn ràng, hồi hộp muốn mở lời cầu hôn mà chưa dám ngỏ. “Xuân tơ non nên ước mơ chưa đan thành lời”
Mùa xuân, mùa của tình yêu, mùa của đôi lứa. Và anh trao em nụ hôn nồng nàn đón xuân sang “Trong đêm vui trao em nụ hôn đầu năm.” Đêm ba mươi đêm cuối cùng của năm cũ, năm mới nhẹ nhàng bước qua. Mọi thứ đều tươi tắn mới mẻ hơn, và anh chẳng mong gì hơn tình yêu của đôi ta và ngày càng nồng thắm. Ước gì cả mối quan hệ của chúng ta cũng sẽ chóng gắn chặt hơn, em nhanh nhanh về chung sống bên anh suốt quãng đời còn lại.
Cuộc đời vẫn còn rất nhiều đêm ba mươi, vẫn còn nhiều mùa xuân ở phía trước.Anh sẽ nắm chặt tay em trong những đêm ba mươi đó em ơi. Mùa xuân tươi non rực rỡ càng thêm sức sống khi mà “Tình với duyên thề cùng với em là mùa xuân rạng rỡ.”. Bàn tay em dịu mềm, nụ cười em tươi tắn, đôi môi em dịu ngọt, em là mùa xuân của anh.
Mọi người đang vui vẻ chúc tụng nhau, và họ cũng đang chúc tụng tình yêu của chúng ta tràn đầy mật ngọt đó em ơi.
Part II: giao thừa - lạnh - lan man
Sáng sớm dậy trời se se lạnh, chỉ muốn cuốn mình mãi trong chăn. Mùa xuân đến. Thật nhanh, 365 ngày đã trôi qua. Vang đâu đây giai điệu Tango rộn ràng của bài hát “Rong chơi đêm giao thừa”. Bài hát này do 2 nhạc sĩ Bảo Phúc- Anh Thoa đồng sáng tác vào thời điểm Việt Nam chưa cấm người dân đốt pháo vào dịp Tết vì vậy trong bài hát tràn ngập tiếng pháo vang rộn rã. Tuy hiện giờ pháo hồng không được phép nổ vào những dịp lễ tết nhưng bài hát vẫn còn sức sống vào mỗi dịp xuân về.
“Trong đêm ba mươi anh cùng em đi rong chơi, chờ đón giao thừa chờ lúc đông tàn và xuân lại tới. Em co vai nép sát trong đôi tay anh vì pháo bên đường bỗng vang trời chào mừng.”
Nhịp tango réo rắt mang theo hơi thở ấm áp của mùa xuân, mùa của tình yêu đôi lứa. Và xem kìa, trong đêm giao thừa đón mừng năm mới, những cặp tình nhân đang tay trong tay dìu nhau đi ngoài phố. Người yêu bé nhỏ e lệ nép vào bờ vai vững chắc, hạnh phúc ôi chao thật nhỏ nhoi.
Trong không khí đón Tết dân tộc tưng bừng của nhà nhà người người, lời bài hát réo rắt như thúc giục các đôi bạn trẻ mau mau cùng nhau xây tổ ấm. Tình yêu thăng hoa khi tay em đan chặt tay anh trong ngày cưới ngày đầu năm.
Mơ ngày cưới luôn có em bên anh đời đời. Ơi ngày ấy có xa không người tình ơi. Xuân tơ non nên ước mơ chưa đan thành lời. Trong đêm vui trao em nụ hôn đầu năm.
Ngày xuân đã đến kề bên rồi, còn ngày cưới thì có đến hay chưa? Một mơ ước nhỏ nhoi cùng nhau xây đắp ngôi nhà chung của đôi uyên ương. Nàng Xuân e ấp dìu dặt mời gọi lứa đôi trao nhau nụ hôn ngọt ngào đầu năm mới. Nàng Xuân quyến rũ lạ kỳ như tình yêu của những đôi nam nữ.
Tiếng hát trầm ấm của ca sĩ Minh Thuận cùng nhịp điệu trẻ trung của bài hát khơi gợi chân người nghe nhịp chân theo. Càng lúc bài hát càng lôi cuốn và khiến đôi chân ta muốn đứng lên nhảy một điệu tango đầy sức sống. Những vũ điệu nhịp nhàng này sẽ giúp chúng ta ngày càng thêm thêm yêu đời
Tình với duyên thề cùng với em là mùa xuân rạng rỡ. Chung quanh ta phố xá như đang đông vui. Và pháo giao thừa vẫn vang trời mừng xuân.
Người người nhà nhà, cả đất nước háo hức trong đêm giao thừa chào đón một mùa xuân mới. Dòng người đổ ra đường như dòng thác lũ, ai ai cũng cười vui hớn hở. Bất kể lạ hay quen mọi người đều sẵn sàng gửi đến nhau những lời chúc mừng năm mới an khanh hạnh phúc thịnh vượng. Từng giây từng phút đang đếm ngược đến thời khắc thiêng liêng, một tiếng trống sẽ vang lên đánh dấu thời điểm mới bắt đầu. Mùa xuân.
Đến tham quan Dejima, tôi thấy thêm một lần nữa tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi của người Nhật đã đưa đất nước này từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu thốn tài nguyên đến địa vị một đế quốc quân sự và sau này một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật (...) Buổi chiều hôm đó lành lạnh, có nhiều mây mù và trời lất phất mưa. Tôi bỗng chợt bâng khuâng muốn đứng giữa bến cảng êm đềm hát to bài tình ca của một thời du học, "Nagasaki wa kyo mo ame datta" (Nagasaki trời hôm nay mưa cũng đã rơi)…
Trương Văn Tân
Cứ mỗi lần trở lại Nhật Bản là tôi có thêm một ấn tượng khác, những ấn tượng này chồng chất lên nhau cho tôi một kết luận là một xã hội văn minh cần xuất phát từ những con người văn minh trong đó dân trí và "quan trí" phải được tôi luyện qua một thời gian dài. Nhưng quá trình "trăm năm trồng người" của Nhật Bản không phải là con lộ du kích "đi tắt đón đầu" mà là một con đường dài lắm chông gai. Thời du học vài thập niên trước của tôi tại Nhật Bản không cho một ấn tượng gì sâu sắc về đất nước Phù Tang này, có lẽ vì thời gian ở đây không đủ dài, cũng như vì chuyện học hành chỉ vùi đầu vào sách vở rồi phải tất bật kiếm sống, cộng thêm một chút ham vui của tuổi trẻ, đã chiếm hết thời gian để có cái nhìn phân tích khách quan về sự hùng mạnh của Nhật Bản trong vài trăm năm qua.
Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận của người thân tại Nhật và internet, chuyến du hành Nhật Bản phần lớn bằng xe lửa siêu tốc Shinkansen đã đưa tôi đi qua hàng ngàn cây số, ngang dọc miền Tây Nam nước Nhật bao gồm ba đảo lớn Honshu, Shikoku và Kyushu. Trong vòng mười ngày, tôi đặt chân đến những thành phố lớn, thị trấn nhỏ, đi tham quan các di tích lịch sử, những khu du lịch thời thượng và đến tận vùng "hoang vu" quê mùa.
Xe lửa siêu tốc Shinkansen
Với cái vé Japan Rail Pass giá đặc biệt cho du khách nước ngoài, người ta có thể dùng xe lửa các loại đi khắp nơi, kể cả xe lửa siêu tốc (bullet train) Shinkansen, với số lần sử dụng vô hạn định trong một thời gian được qui định trước. Có thể nói xe lửa Nhật là một hệ thống giao thông công cộng hoàn hảo bậc nhất thế giới. Giờ đi giờ đến được thiết kế chính xác từng phút và áp dụng nghiêm chỉnh từ xe vài toa chạy chậm ghé từng nhà ga ở vùng quê tới xe lửa siêu tốc Shinkansen đi xuyên qua các thành phố lớn nhỏ ở chốn phồn hoa đô hội.
Xe lửa Shinkansen là một niềm tự hào của người Nhật. Hơn 44 năm qua (từ năm 1964), Shinkansen là một phương tiện di chuyển nhanh được thiết kế chạy trên đường ray cổ điển bình thường và chưa một lần xảy ra tai nạn. Từ đống tro tàn chiến bại của Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Nhật Bản đã có một tầm nhìn chiếc lược khôn ngoan là đối với một quốc gia đất hẹp người đông, Nhật Bản cần một hệ thống đường sắt mới (Shinkansen có nghĩa là "tuyến đường mới") cho xe siêu tốc để gia tăng sự di động của dân chúng giữa các thành phố lớn và cũng để kích thích nền kinh tế qua giao thông. Để thực hiện dự án mang tính cách mạng này chính phủ Nhật đã kiên nhẫn thuyết phục Ngân hàng Thế giới cho vay 80 triệu USD (không bị cắt xén vì tham nhũng!) để xây đoạn đường sắt đầu tiên Tokyo - Osaka (600 km) và khánh thành năm 1964 vài tháng trước Tokyo Olympic. Thời gian đi lại giữa hai thành phố này giảm từ 7 tiếng xuống còn 3 tiếng. Ở thập niên 1960, đây là một kỳ tích của thế giới. Trong bốn mươi năm qua, tốc độ của xe Shinkansen tăng từ 200 km/h đến 250 km/h, 280 km/h và bây giờ 300 km/h. Đầu xe bây giờ đa dạng hơn, không còn hình dạng "đầu đạn" nguyên thủy nữa mà trở nên dài ra hình mỏ vịt. Theo sự quan sát của tôi thì đường ray không thay đổi nhưng đầu xe đã được thiết kế nhiều dạng khác nhau để gia tăng hiệu quả khí động lực học làm giảm sức cản không khí (Hình 1).
Hình 1: Xe lửa siêu tốc Shinkansen.
Đứng trên những nhà ga trung tâm như ga Tokyo, cứ năm mười phút là có một chuyến tàu Shinkansen đến hoặc đi, hay trên nhà ga tỉnh lẻ những đoàn tàu siêu tốc sầm sập chạy qua như mũi tên bay, chưa kịp chụp một bức ảnh thì tàu đã lao đi. Trong khoảng thời gian tôi du hành tại Nhật, công ty đường sắt Nhật Bản tuyên bố cho về hưu toàn bộ xe siêu tốc Shinkansen "Hệ Zero" đầu đạn tròn nguyên thủy. Chuyến xe cuối cùng không còn một chỗ trống. Hàng ngàn "fan" đứng đợi tại các nhà ga để từ giã chuyến xe cuối cùng và chụp hình kỷ niệm như là chia tay với một người thân và cũng để cảm tạ sự phục vụ tận tình của Hệ Zero trong 44 năm qua. Tình cảm người Nhật là như vậy.
Lịch sử phát triển đường sắt gắn liền với sự phát triển đời sống của người dân và nền kinh tế Nhật Bản. Cùng một nhịp điệu phát triển với xe siêu tốc Shinkansen, những chuyến tàu chậm địa phương cũng được nâng cấp toàn bộ. Xe lửa Nhật cũng đã có một thời kỳ mông muội sơ khai. Nhớ lại vài thập niên trước, bàn cầu toilet của những chuyến xe lửa nhà quê lên tỉnh chỉ là một lỗ trống thông ra bên ngoài. Có nghĩa là những sản phẩm bài tiết cứ thế đi thẳng xuống đường ray, "gởi gió cho mây ngàn bay". Vì vậy trước khi tàu dừng ở ga, ông trưởng tàu lúc nào cũng ân cần dặn dò hành khách ráng kiên nhẫn ngừng lại những hoạt động bài tiết! Nhưng đây là chuyện của quá khứ. Những chuyến tàu liên tỉnh giờ đây đèn đuốc sáng choang, ghế bọc da đẹp hơn ghế cấp business hàng không, toilet có cửa tự động, sạch sẽ rộng rãi như một en-suit trong khách sạn.
Kochi: Dòng sông xanh
Tôi và người thân đến thành phố Kochi (tỉnh Kochi) trong một ngày nắng ấm. Kochi là một tỉnh phía Nam của đảo Shikoku rất phong phú về nông và hải sản; phía nam nhìn ra Thái bình dương, phía bắc có rừng núi vây quanh. Shikoku là đảo nhỏ nhất trong bốn đảo chính, Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku tạo thành nước Nhật. Kochi nổi tiếng với những dòng sông lớn. Nói là sông lớn nhưng đó chỉ là những dòng chảy ngắn và nhỏ khi so với những chi lưu của dòng Mekong. Chúng tôi đến thăm dòng sông Shimanto. Người ta gọi Shimanto là "dòng sông xanh cuối cùng" của nước Nhật vì đây là dòng sông duy nhất không có đập nước. Từ thành phố Kochi đến Shimanto không hơn 120 km nhưng cũng phải vượt qua gần 50 cái đường hầm xuyên chân núi dài ngắn khác nhau, khi vài chục thước khi vài cây số. Dọc hai bên đường ô tô hay xe lửa là những thửa ruộng nhỏ vài chục mét vuông hay nhiều lắm vài hecta nối tiếp nhau bị ngăn chia bởi núi đồi. Địa hình của toàn thể nước Nhật cũng tương tự như vậy với 70 - 80 % bao phủ bởi rừng núi. Những cánh đồng ngút ngàn như đồng bằng sông Cửu Long không hiện hữu trên đất nước cằn cỗi này. Kỹ thuật đào đường hầm hay đào lòng biển của Nhật vì vậy đạt mức hàng đầu thế giới.
Dòng sông này không phải là Vườn quốc gia (National Park) mà chỉ là một nơi bình thường với ngư dân sống lác đác dọc hai bên bờ. Sự hiện đại hóa của nước Nhật để lại rất ít những hình ảnh hoang vu như cảnh vật dòng Shimanto. "Dòng sông xanh cuối cùng" cũng là một con sông ngắn với dòng chảy êm đềm. Ngư dân ở đây vẫn còn giăng lưới bắt cá hoặc lươn, một việc bình thường ở Việt Nam nhưng lại là những cảnh quan hiếm thấy tại Nhật. Cuộc sống bươn chảy, lao lướt của thành phố khiến người Nhật phải tìm đến những miền hoang dã như dòng sông Shimanto để hòa điệu cùng thiên nhiên, tìm về cái yên tĩnh và mộc mạc của nước Nhật 50 hoặc 100 năm trước (Hình 2).
Hình 2: Dòng sông xanh Shimanto.
Chúng tôi thuê một chiếc thuyền đi dọc theo dòng sông. Dòng sông trong xanh trôi nhè nhẹ qua những cây cầu xi măng bắt ngang vừa đủ cho một chiêc xe hơi nhỏ chạy qua. Người dân ở đây gọi những cây cầu này là Chinka-bashi (Trầm hạ kiều = cầu chìm). Tôi tò mò hỏi ông lái thuyền sao gọi là cầu chìm, ông từ tốn trả lời "Dòng sông này mỗi năm ngập 2, 3 lần và ngập luôn cầu nên gọi là cầu chìm". Tôi hỏi tiếp "Sao không làm cao?", "Làm cao tốn kém lại không cần thiết, nếu ngập thì chỉ 2, 3 ngày là nước rút đi". Ông bảo vào năm 2005, một trận lụt khủng khiếp xảy ra, nước dâng cao 20 m chỉ cần thêm 1 m nữa thì tràn qua đê. "Anh có thấy cái nhà hai tầng xa xa đàng kia không?", ông nói, "Mực nước dâng cao qua khỏi nóc nhà đấy!". Cuộc sống hơi khó khăn vì lũ lụt thường xuyên nhưng ông bảo đây là quê hương và ông không muốn bỏ lên thành phố. Mùa Xuân, ngư dân giăng câu thắp những bóng đèn điện nhỏ để bắt lươn con về đêm. Những con lươn con sẽ được nuôi trong hồ cho đến khi trưởng thành. Món lươn nướng khoái khẩu và súp lươn là một đặc sản trong vùng. Mùa Hè, dân thành phố kéo về đây để xem hàng vạn con đom đóm bay xung quanh bụi cây như những cây thông Christmas dọc theo dòng sông. Lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy đom đóm và không biết bây giờ còn ở vùng quê Việt Nam?
Kochi: Ôn tuyền lữ quán
Nước Nhật bị công nghiệp hóa và người Nhật bị "stressed" cao độ. Có dịp, họ ùa nhau đi tìm sự thư giãn nơi mà họ có thể "yukkuri dekiru" (được thoải mái). Khi đi du lịch họ trú ngụ ở nhà khách truyền thống gọi là "ôn tuyền lữ quán" (nhà khách với suối nước nóng). Những lữ quán này có phục vụ trọn gói với phòng ngủ chiếu tatami, tắm suối nước nóng, ăn tối và ăn sáng theo phong tục Nhật. An Nam ta có "tứ khoái", nhưng tôi nghĩ Phù Tang hơn ta một "khoái", có đến "ngũ khoái"! Cái khoái thứ năm là thú tắm suối nước nóng. Nằm trong vòng lửa Thái Bình Dương, nước Nhật từ Nam chí Bắc đầy nguồn suối nước nóng, rải rác khắp nơi. Những "ôn tuyền lữ quán" mọc lên ở những địa điểm du lịch tạo ra khu thư giãn cuối tuần hay ngày lễ cho dân thành phố. Đây là nơi những cặp vợ chồng son cũng như những cặp vợ chồng luống tuổi, cụ ông cụ bà, hay là một nhóm đồng nghiệp lui tới cùng nhau thoải mái trong bể suối nước nóng, rồi sau đó tận hưởng các món cá, mực sống sashimi truyền thống, cùng khề khà chén chú chén anh qua cốc rượu sake. Nơi chúng tôi trú ngụ là một "ôn tuyền lữ quán" nổi tiếng Kochi với cái tên rất nên thơ "Thành Tây Quán" (Joseikan).
Các nghi thức hành xử (etiquette) trong bể nước nóng từ xưa đối với người Nhật đã trở thành một qui luật bất thành văn. Nhưng gần đây có lẽ lối thư giãn này hấp dẫn khách nước ngoài nên phải có "qui luật thành văn" phụ đề Anh ngữ, treo ở cửa ra vào. Rằng là bất kỳ nam phụ lão ấu phải hoàn toàn "như nhộng" không được mặc một thứ gì trên người kể cả đồ tắm; rằng là không được ồn ào, không được uống rượu, phải dội nước sạch sẽ trước khi ngâm mình trong bể; rằng là người có máu cao, mang thai chớ có liều lĩnh mà thọt cẳng vào. "Ôn tuyền lữ quán" nơi tôi trú ngụ thuộc hạng 5 sao nên ban quản lý càng chi tiết hơn về vệ sinh cá nhân. Rằng người nào có ghẻ nhọt thì không nên vào, nhưng ai mang bịnh trĩ thì cứ thoải mái không sao!
Bể nước được đặt trong một khoảng không gian rộng rãi, nước suối được mang từ ngoài vào chảy róc rách, được pha với nước lạnh để điều chỉnh nhiệt độ khoảng 42 - 45° C. Tôi tò mò tìm hiểu cái bảng phân tích treo bên cạnh bể; bảng liệt kê các chất khoáng chứa trong nước và các thứ bệnh như đau lưng, đau khớp, phong thấp, tay chân rỉ mồ hôi... mà nguồn suối này có khả năng trị liệu. Tôi từ từ ngâm mình vào nước, vừa lim nhim đôi mắt, vừa lắng tai nghe tiếng nước chảy để gia tăng sự đê mê trong bầu không khí đầy hơi nước, tận hưởng cái cảm giác râm ran của những làn nước nóng tưởng chừng như xuyên qua từng lỗ chân lông, đi vào từng thớ thịt. Bên cạnh cái bể lớn là cái bể nhỏ có cùng một nguồn nước nhưng treo thêm một cái bao rất to, hăng hắc mùi thuốc. Bảng phân tích cho biết cái bao này chứa 10 vị thuốc Bắc như đơn qui, trần bì (vỏ quít), cam thảo, quế, gừng..., chuyên trị năm ba thứ bệnh linh tinh khác. Kiểm điểm lại thì tôi thấy không bị mắc thứ bệnh nào, nhưng tiện chân nhảy vào cho mát da mát thịt. Sau khi tắm và ngâm trong suối nóng, tôi được trao cái áo yukata, một loại kimono nhẹ, mặc qua đêm và dùng cơm tối. Tôi súng sính mặc vào, choàng thêm một cái áo ngắn tay, ngắm tới ngắm lui, đi qua đi lại. Oai phong lắm lắm! Chỉ cần có thêm một búi tóc phía sau và cạo đầu chừa một chỏm tóc phía trước, bên hông vắt theo thanh kiếm dài katana là tôi biến thành samurai của thế kỷ 18!
Hình 3: Sashimi cá ngừ (katsuo), một đặc sản Kochi.
Triết lý nhân sinh của người Nhật tập trung ở chữ "hòa" (hòa hợp, hòa bình). Sự giao tế giữa con người hay giữa con người với thiên nhiên xoay quanh chữ "hòa". Ngay trong ẩm thực, tôi cũng cảm thấy cái "hòa" khi ăn một miếng sashimi chấm nước tương với wasabi rồi uống một ngụm nhỏ sake (Hình 3, 4). Cái cay nồng của wasabi xông lên mũi chảy nước mắt dường như được "hòa" dịu bằng cái cay của hơi sake hâm nóng. Thêm cái dư âm lâng lâng, sảng khoái còn phảng phất sau cuộc ngâm mình trong bể nước suối "hòa" lẫn cái ngà ngà của men rượu, "mượn ba chén dập dìu trăng gió"[1]. Hai ba cái "khoái" cùng hòa hợp một lúc tạo ra hiệu ứng cộng hưởng đồng loạt (synergetic) cho ta một cảm giác tuyệt vời, không thể nào dùng lời tả hết…
Hình 4: Một phục vụ viên của Thành Tây Quán.
Hiroshima: Bom nguyên tử
Tôi từ giã người thân và từ đảo Shikoku vượt Đại kiều (cầu lớn) Seto được bắc trên năm hòn đảo nhỏ nối liền hai đảo Shikoku và Honshu đi đến thành phố Hiroshima bằng chuyến tàu siêu tốc Shinkansen. Mới hai ngày trước, bầu trời mùa Thu trong xanh ấm áp bao nhiêu, thì bây giờ ảm đạm lạnh lẽo bấy nhiêu. Tôi nhìn bản đồ tìm về hướng Công viên Hòa bình. Ngọn gió đầu Đông mơn man thổi, những chiếc lá vàng bay lả tả như cánh bướm dọc theo một bờ sông nhỏ trong thành phố. Trong khung trời lãng mạn này, bỗng nhiên xuất hiện quang cảnh hoang tàn của tòa nhà bị bom nguyên tử. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ trên không cao 600 m trên tòa nhà này, để trơ lại cái vòm sắt và những bức tường đổ nát. Sức nóng tỏa ra từ quả bom làm sạm đen bề mặt bức tường tưởng chừng như mới xảy ra, mặc dù đã hơn 60 năm qua (Hình 5).
Hình 5: Tòa nhà bom nguyên tử (Di sản Thế giới).
Bên kia bờ sông là Công viên Hòa bình với Nhà Bảo tàng Hòa bình lưu trữ hình ảnh, hiện vật và tài liệu về hậu quả của quả bom nguyên tử Hiroshima. Ở giữa công viên, người ta xây một cái vòm tưởng niệm bằng đá hoa cương đơn giản không cao lắm (Hình 6). Đứng nhìn từ xa, cái vòm đá này như bao trọn tòa nhà bị bom ở phía xa xa, như che chở những linh hồn vô tội. Trong vòm đá người ta khắc một hàng chữ Nhật để tưởng nhớ cũng như để nhắn nhủ đến hàng trăm ngàn vong linh chết oan ức: "Xin hãy ngủ yên, vì lỗi lầm này sẽ không bao giờ lập lại".
Hình 6: Vòm tưởng niệm.
Trong cái lạnh cuối Thu, Công viên Hòa bình vẫn không vắng người. Hàng ngàn khách tham quan từ các nơi trên thế giới, những đoàn học sinh tiểu học, trung học từ mọi miền đất nước nườm nượp kéo về đây. Một nhóm học sinh mặc đồng phục chỉnh tề tay cầm một tập sách nhỏ, đứng trước tượng đài tưởng niệm "Thiếu nhi tử nạn vì bom". Tôi khẽ nhìn vào tập sách dày trên dưới 20 trang, thì ra đó là tập lịch trình tham quan, bài ca, tư liệu học tập và bài tập được thầy cô chuẩn bị cho chuyến đi. Dưới sự hướng dẫn của thầy cô, các cháu cúi đầu mặc niệm, sau đó đồng ca một bài tưởng niệm và tung hô hòa bình thế giới với tiếng nhạc đệm phát ra từ một máy cassette gần đó. Một cháu đại diện nhóm bước ra nói cảm tưởng của mình, sau đó là bài diễn văn ngắn của thầy hướng dẫn nói về ý nghĩa của chuyến đi. Mọi người đều trầm ngâm, không một tiếng nói chuyện cười đùa. Cuối cùng, các cháu mang những con hạc giấy origami xếp sẵn biểu tượng cho hòa bình được kết lại nhiều chùm đặt dưới tượng đài. Một buổi lễ ngắn nhưng thật là cảm động, đầy ý nghĩa.
Trong Nhà Bảo tàng, hiện vật do hậu quả bom nguyên tử gây ra được trưng bày với lời giải thích tỉ mỉ và những hình ảnh kinh hoàng gây trên cơ thể con người khiến người xem không cầm được nước mắt hay phải nhắm mắt bỏ ra ngoài. Từ trung tâm bom nổ đến phạm vi bán kính 1 km, người ta chết tức khắc vì sức nóng. Nhiệt tỏa ra từ quả bom nóng đến độ làm mềm gốm sứ và tan chảy kim loại trong vòng bán kính 600 - 700 m. Ta có thể đoán sức nóng ít nhất phải trên 1000 °C. Toàn thể những tài liệu hướng dẫn, lời ghi chú, giải thích ở Nhà Bảo tàng, tôi không thấy xuất hiện những ngôn từ mang tính chất khiêu khích, hiếu chiến như "tội ác", "hận thù", "đế quốc" hay "xâm lược".
Tôi chú ý đến bức hình của Albert Einstein chụp chung với nhà vật lý người Mỹ gốc Hung gia lợi, Leo Szilard, trong thời gian khi hai người cùng thảo bức thư đề nghị tổng thống Roosevelt làm bom nguyên tử (năm 1939). Bản copy của bức thư định mệnh này mang địa chỉ nhà riêng và chữ ký của Einstein được trang trọng để trong lồng kính. Có một đoạn quan trọng của bức thư được tô đỏ và dịch ra tiếng Nhật. Trong đoạn này Einstein nói đến khả năng làm một loại bom cực kỳ mạnh với sức tàn phá vô song chưa từng thấy và khẩn thiết đề nghị tổng thống Mỹ lập ra một chương trình chế tạo loại bom này. Đọc xong bức thư, Roosevelt không chần chừ do dự và chương trình cực mật Manhattan ra đời.
Việc Einstein đề nghị làm bom nguyên tử là một thường thức lịch sử, nhưng khi đối mặt với bức thư định mệnh này, tôi sốc. Tôi lặng lẽ bước ra ngoài thầm nghĩ Einstein không những là một thiên tài khoa học mà cũng là một con người đạo đức đầy tính nhân bản, ông tranh đấu cho công bằng xã hội, dân chủ, sự thật, nhân quyền suốt cả đời người. Là một người làm khoa học và hiểu rõ sức mạnh của công thức E = mc2, phương trình cơ bản cho việc chế tạo bom nguyên tử, Einstein thừa hiểu đây là một loại vũ khí hủy diệt. Nhưng động cơ nào đưa đẩy ông vào cõi vô minh, khiến ông có thể viết một bức thư khuyến khích các chính trị gia lao đầu vào cuộc thí nghiệm trên cơ thể con người bằng phương pháp thảm sát tập thể đồng loại, tàn phá môi sinh, chưa nói đến những cuộc chạy đua vũ khí hạch nhân cho đến ngày hôm nay? Tôi thật sự hoang mang, không tìm ra câu trả lời.
Qua cửa sổ tầng hai của Nhà Bảo tàng, tôi nhìn thấy vòm tưởng niệm đá hoa cương và tòa nhà bị bom thấp thoáng đàng xa. Ánh sáng ban mai xuyên qua kẽ hở của những cụm mây dày mùa Thu làm rực sáng bãi cỏ xanh bên dưới; nổi bật lên những chiếc áo đồng phục màu vàng của đám trẻ con lớp mẫu giáo đang tung tăng theo cô giáo như đàn gà con theo mẹ. Tôi vừa xốn xang nhìn về một quá khứ kinh hoàng, vừa đăm chiêu chiêm ngưỡng một hiện tại an bình. Chưa bao giờ trong tôi lại nổi lên một tình cảm chán ghét chiến tranh đến thế...
Hiroshima: Miyajima
Hiroshima không phải chỉ có bom nguyên tử. Cách thành phố một giờ xe lửa và qua một con phà sẽ đưa ta đến đảo Miyajima. Đứng trên con phà, ta sẽ thấy cái cổng đền (tiếng Nhật gọi là torii) cao 15 m màu đỏ rực xuất hiện từ xa, đứng sừng sững như in trên nền màu xanh tươi của rừng núi phía sau. Đây là một kiến trúc đặc thù Nhật Bản và cũng là hình ảnh biểu tượng của đất nước Thái dương Thần nữ. Torii là cổng dựng trước những ngôi đền Thần đạo (Shinto). Kiến trúc những đền Thần đạo hay chùa Phật giáo mang một sắc thái đặc biệt Phù Tang. Với những nét chấm phá đơn giản, hình dạng và độ cong của mái ngói, chúng dễ dàng phân biệt được với những kiến trúc Trung Quốc (Hình 7, 8).
Hình 7: Cổng torii trong sương sớm (Di sản Thế giới).
Hình 8: Đền Thần đạo tại đảo Miyajima
Cổng torii và đền Thần đạo của đảo Miyajima nổi tiếng từ xưa vì nó được xây trên bãi biển vào năm 1168 và bây giờ là Di sản Thế giới. Một vị tướng quân cai trị vùng này thời đó có một ý tưởng là xây một ngôi đền "nổi". Bãi biển là một nơi lý tưởng để dựng đền vì mỗi lần thủy triều lên, chân đền ngập nước và cho một cảm giác "nổi" trên nước. Tôi đến nơi này vào một buổi sáng sớm khi thủy triều còn thấp. Nhiều phó nhòm chuyên nghiệp với dụng cụ nhiếp ảnh đắt tiền kiên nhẫn chờ đợi nước triều lên và hoàng hôn xuống để chụp được những bức ảnh nhiều màu sắc mang sự hài hòa giữa kiến trúc của con người, rừng núi và bầu trời của thiên nhiên.
Nagasaki: Thành phố lịch sử
Từ Hiroshima tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về hướng Tây tiến về đảo Kyushu đến thành phố Nagasaki. Việc nối kết bốn hòn đảo chính bằng cầu hay đường hầm chạy dưới lòng biển là một kế hoạch manh nha từ thời Minh Trị Duy Tân. Đến ngày hôm nay, Nhật đã hoàn thành tất cả những kế hoạch này và đây là những công trình vĩ đại của lịch sử công nghệ xây dựng. Từ đảo Honshu qua đảo Kyushu một đường hầm dài gần 19 km xuyên qua lòng biển đã được thực hiện cho xe lửa siêu tốc Shinkansen có thể chạy đến 300 km/h.
Nagasaki (Hình 9) là một thành phố cảng ở phía Tây Bắc đảo Kyushu, nằm ở một vị trí chiến lược gần bán đảo Triều Tiên, đại lục Trung Quốc và Đài Loan. Nagasaki là cái nôi của nền khoa học kỹ thuật hiện đại Nhật Bản, mang một ý nghĩa lịch sử sâu sắc trong việc canh tân biến nước Nhật từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một cường quốc ngang hàng với phương Tây ở thế kỷ thứ 19. Nagasaki là thành phố thứ hai bị bom nguyên tử. Khi người Nhật chưa hết bàng hoàng vì quả bom Hiroshima, thì ba ngày sau Mỹ bỏ quả bom thứ hai trên thành phố này.
Hình 9: Con suối nhỏ chảy ngang thành phố.
Cũng như Hiroshima, Nagasaki đã hoàn toàn khắc phục hậu quả của vết thương nguyên tử và trở thành một thành phố hiện đại. Hiện nay, toàn tỉnh đang tham gia phong trào vận động chính phủ kéo tuyến đường xe lửa siêu tốc Shinkansen đến Nagasaki để tăng tốc nhịp độ kinh tế địa phương. Dù là một tỉnh ở cực Nam nước Nhật (có thể so sánh như Kiên Giang hay Cà Mau của ta), các cô gái Nagasaki cũng thời thượng không kém dân Tokyo. Một người bạn viết email hỏi tôi "Con gái Nagasaki có đẹp không?", không một chút do dự tôi trả lời rằng "Đẹp một cách thần thoại". Các cô gái trang điểm rất nhẹ, không nặng nề loè loẹt. Nhật Bản là nước có nhiều trung tâm giải phẫu thẩm mỹ cao cấp, nhưng phụ nữ Nhật dường như không thích chỉnh sửa bằng dao kéo. Ngược lại quí bà quí cô sẵn sàng trút tiền mua các loại mỹ phẩm Shiseido đắt giá để tạo cho những đôi mắt một mí Nhật Bản có một vẻ đẹp đặc thù, hay để làm nổi bật cái sóng mũi dọc dừa, cái cằm trái soan, bằng sự điều hòa giữa các gam màu mỹ phẩm. Thời trang của các cô cho mùa Thu năm nay là đôi giày ống da cao đến gối, bó lấy đôi chân thon dài nhún nhảy, đi với cái short skirt trêu ngươi hay là cái quần short ngắn thật sát để lộ một phần đùi dài ít nhất 20 cm. Mỗi người mỗi kiểu. Các nhà thiết kế thời trang và công ty mỹ phẩm Shiseido quả là có nhiều sáng kiến moi tiền và phụ nữ Nhật cũng đáp ứng nhiệt tình, tiêu xài rộng rãi, đóng góp không ít vào nền kinh tế Nhật qua cái khoản chi tiêu làm đẹp.
Hình 10: Một giáo đường tại Nagasaki.
Ngược dòng lịch sử, trở về quá khứ. Từ thế kỷ thứ 16, Nagasaki trở thành một cảng quốc tế giao thương với người Trung Quốc và các thế lực Âu Tây đương thời như Bồ Đào Nha và Hà Lan. Cũng từ Nagasaki, các đội thương thuyền Nhật Bản vượt trùng dương buôn bán với Trung Quốc, Việt Nam (Phố Hiến, Hội An), Campuchia, Phillipine, Thái Lan và đến tận Indonesia và Mã Lai. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha sớm mang Ky-tô giáo đến truyền bá trên đất nước Thái dương Thần nữ và xây nhiều giáo đường trước khi chính quyền Mạc Phủ ra lệnh "tỏa quốc" (sakoku, tức là bế quan tỏa cảng), cấm đạo, trục xuất người Bồ Đào Nha và giết giáo sĩ [2]. Số người Nhật theo Ky-tô giáo rất ít, nhưng không ở đâu trên nước Nhật dấu ấn của Ky-tô giáo đậm đà và sâu sắc như tại Nagasaki. Hàng chục giáo đường lớn nhỏ tại Nagasaki và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các vị nữ tu thường đi lại trên đường phố hay trên các phương tiện giao thông công cộng; một cảnh tượng hiếm thấy trong các thành phố Nhật Bản. Nhiều giáo đường trở thành Quốc Bảo (di sản quốc gia) được chính phủ hay các hội đoàn địa phương trùng tu liên tục (Hình 10). Người Trung Quốc cũng di dân đến Nagasaki từ thời mạt Minh và đến khi nhà Thanh thành lập số người Hoa gia tăng, mang theo tinh thần "phản Thanh phục Minh" chờ dịp lật đổ triều đình Mãn Thanh. Sự ngẫu nhiên lịch sử đã đưa đẩy Nagasaki trở thành giao điểm của hai nền văn hóa Đông và Tây, đi song song và bổ sung nhau, tạo thành một nét đặc thù văn hóa không tìm thấy ở các thành phố khác của Nhật.
Hình 11: Chùa cổ Trung Quốc, Hưng Phước Tự.
Trong buổi sáng đầu tiên lành lạnh của thành phố cảng này, tôi đi xe điện (tram, streetcar) tìm đến con đường lịch sử, Teramachi-dori (đường xóm Chùa). Gần 10 ngôi chùa cổ với số tuổi 300 - 400 năm được mang danh hiệu Quốc Bảo (di sản quốc gia), tọa lạc trên con đường hẹp và dài 2 km này. Chính quyền Mạc Phủ đương thời cho phép mỗi tông phái Phật giáo xây một ngôi chùa dọc theo con đường tiếp giáp với chân núi Kazarashira. Hai ngôi chùa Trung Quốc, Hưng Phước Tự (Kofukuji) và Sùng Phước Tự (Sofukuji) (Hình 11), ở đầu và cuối con đường có lẽ là hai ngôi chùa cổ nhất của Teramachi. Chùa được di dân người Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) trong thời gian đầu lập nghiệp xây dựng với vật liệu mang từ Trung Quốc. Hòa thượng Ẩn Nguyên (Ingen) từ Phước Kiến đến đây truyền bá Thiền Tông (1654), lập ra trường phái thiền Hoàng Bá và trở thành một vị Đại Sư được tôn kính rất mực của Phật giáo Nhật Bản.
Nagasaki: Nàng công nương họ Nguyễn
Ở giữa con đường xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa này có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quí tộc và giai cấp võ sĩ "samurai" vài trăm năm trước [3]. Dựa theo thông tin của một ông bạn tại Nagoya, tôi đến thăm chùa với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro (Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai. Đại Âm Tự là một trong những ngôi chùa lớn tại Nagasaki. Tiếc rằng, trận hỏa hoạn năm 1959 đã thiêu hủy toàn thể ngôi chùa. Chùa được xây cất lại nhưng vẻ cổ kính không còn như xưa.
Tôi đi đến văn phòng chùa hỏi thăm địa điểm ngôi mộ cổ. Bà quản lý tử tế chỉ dẫn và nhanh nhẹn lướt qua một số tài liệu, in ra cho tôi một trang nói về phần mộ của dòng họ Araki. Thì ra, ngôi mộ được chỉ định là "Sử tích của thành phố Nagasaki". Tôi thầm phục cách lưu trữ tài liệu, phân loại và xử lý văn bản lịch sử của người Nhật. Chỉ trong vòng vài phút, một người quản lý bình thường của một ngôi chùa có thể tìm ra tên tuổi người quá cố qua đời vài trăm năm trước giữa hàng chục ngàn cái tên khác.
Hình 12: Mộ phần dòng họ Araki.
Theo lời chỉ dẫn, tôi leo lên hơn 200 bực đá dọc theo triền núi, quẹo trái quẹo phải, đi qua hàng trăm ngôi mộ cổ được sắp xếp thứ tự theo từng gia tộc, phần lớn đã rêu phong, những chữ khắc vào đá cũng đã phai mờ. Ở mỗi phần mộ tôi nhận thấy có bia đá nhỏ khắc chữ "Thổ thần" giữ mộ. Một tập tục Trung Quốc ảnh hưởng đến phong tục của người Nagasaki. Tôi không thấy những bó hoa tươi, dấu vết hương khói hay sự lui tới thường xuyên của con người, chỉ có những làn gió vi vu thổi qua ngọn đồi làm không gian vốn đã u tịch lại càng đượm thêm một màu thê lương. Có lẽ, vì là mộ cổ con cháu của người quá cố đã ly tán khắp nơi, không còn ai còn nhớ đến quá khứ và trở lại chăm sóc mộ phần. Mộ phần nhà Araki cũng dễ tìm, trước cổng mộ thành phố Nagasaki có dựng một bảng tóm tắt tiểu sử của ông Araki Sotaro và người vợ, một công nương Việt Nam với cái tên Nhật (?) Wakaku (từ Hán Việt: Vương Gia Cữu) (Hình 12, 13). Đứng trước ngôi mộ tôi chấp tay cúi đầu, hy vọng rằng sẽ có hài cốt của một công nương quyền quí nằm trong lòng đất này.
Hình 13: Bảng tiểu sử ông Araki Sotaro và vị công nương Việt Nam do thành phố Nagasaki dựng lên.
Tôi tìm hiểu thêm về mộ phần của Araki Sotaro qua thông tin trên trang copy từ sách tài liệu của nhà chùa. Được biết, Araki Sotaro sau khi thành hôn với công nương Wakaku ông tự đặt thêm một tên Việt Nam là Nguyễn Thái Lang. Công nương Wakaku nổi tiếng và được người dân Nagasaki gọi bằng cái tên thân mật là Anio-san (anio = A Nương theo từ Hán Việt, có thể dịch là "cô nương"). Công nương mất năm 1645, như vậy bà sống ở Nhật 26 năm, được ban pháp danh là Diệu Tâm. Một pháp danh rất là Việt Nam. Cũng theo trang thông tin này, hơn hai trăm năm sau vào thời Minh Trị mộ phần của Akira Sotaro và Anio-san được con cháu đời thứ 13 cải táng và mộ phần hiện tại chỉ có đời thứ 3, thứ 12, 13 và 14 (Araki Sotaro là đời thứ 1).
Cuộc đời của Araki Sotaro và công nương Việt Nam Wakaku sẽ có rất ít người biết nếu chỉ dựa vào bảng tiểu sử ở một nghĩa trang heo hút và tài liệu "đóng bụi" của Đại Âm Tự. Nhưng câu chuyện tình Nhật Việt này đã được mang ra trình bày và giải thích bằng hai thứ tiếng Nhật và Anh cùng với những mẩu chuyện khác về Nagasaki ở thế kỷ 17, 18 tại địa điểm tham quan lịch sử Dejima (đề cập ở phần sau). Tài liệu Nhật còn cho biết khi nàng Wakaku cập bến Nagasaki, một cuộc đón tiếp long trọng được tổ chức để đón cô dâu quí tộc đến từ Nam quốc xa xôi. Trang phục của cô dâu đã gây một ấn tượng đặc biệt cho người dân Nagasaki và từ đó về sau nó trở thành một tiết mục thời trang cho lễ hội (matsuri) hàng năm của thành phố đến tận ngày hôm nay. Trong khi đó, lịch sử Việt Nam không có một giòng chữ nào đề cập đến số phận của nàng công nương xa xứ họ Nguyễn.
Phải công nhận rằng người Nhật có cách quảng bá lịch sử rất sáng tạo và khoa học. Ở những địa điểm du lịch, họ dựng bảng giải thích các di tích với hình ảnh, bản đồ, niên biểu, và lời dịch tiếng Anh rất chính xác, gần đây thêm tiếng Hoa và tiếng Hàn. Đối với những sự kiện lịch sử lớn lao đặc biệt là vào thời Mạc Phủ và Minh Trị Duy Tân, họ nghiên cứu, sưu tập tư liệu làm những bộ phim tập trường thiên chiếu trên kênh truyền hình quốc gia NHK để tôn vinh một thời đại, một vương phi hay một nhân vật samurai anh hùng. Vì tính chất hấp dẫn của những bộ phim samurai lịch sử này, phim chưởng Hong Kong hay Trung Quốc với những màn đánh nhau loạn xị, vô cảm nằm ngoài thị hiếu của khán giả và không bao giờ xâm nhập được vào thị trường tivi và điện ảnh Nhật Bản. Ngoài ra, kênh truyền hình giáo dục NHK [4] có những giờ lịch sử được trình bày sống động theo lối "kể chuyện cổ tích" xen vào những khúc phim miêu tả (re-enactment) hay phim tài liệu ngắn rất cuốn hút người xem.
Nagasaki: Dejima
Dejima là một địa danh lịch sử của Nagasaki và của Nhật Bản. Nói đến lịch sử cận đại Nhật Bản thì phải đề cập đến Dejima. Cũng không phải quá lời khi gọi Dejima là cái nôi của khoa học kỹ thuật cận đại Nhật Bản. Trong suốt thời kỳ "tỏa quốc" (bế quan tỏa cảng) của chính quyền Mạc Phủ, nước Nhật tự cấm vận chính mình không giao thương với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, chính quyền Mạc Phủ khôn ngoan mở ra một "cửa sổ" nhỏ để nhìn thế giới. Đó là Dejima (Hình 14).
Hình 14: Mô hình toàn cảnh Dejima
Dejima là một hòn đảo nhân tạo rộng 15.000 m2 được chính quyền Mạc Phủ xây cất để cho người Hà Lan mướn và lập văn phòng của các công ty thương thuyền, nhà ở cho nhân viên. Người Hà Lan được phép đi lại vì họ chỉ buôn bán và không liên hệ đến các hoạt động truyền giáo. Trong những đoàn thương nhân này, có những vị bác sĩ đến đây để chăm sóc sức khoẻ của nhân viên và thủy thủ. Những sĩ phu yêu nước không phân biệt giai cấp từ Edo (Tokyo), Kyoto, Osaka, đã lũ lượt kéo về Nagasaki đến Dejima tìm gặp các vị bác sĩ này để "tầm sư học đạo". "Đạo" ở đây là Lan học (cái học của Hà Lan), có nghĩa là cái học của khoa học kỹ thuật Tây phương. Năm 1774 bộ sách y khoa về giải phẫu học tiếng Nhật đầu tiên và cũng là quyển sách khoa học đầu tiên, "Giải thể tân thư", ra đời dựa trên theo nguyên bản tiếng Hà Lan. Những môn học khác như thực vật học, dược học, nông học, vật lý, hóa học, toán học lần lượt được phổ biến. Từ đó Lan học và phong trào dịch thuật lan rộng cả nước nhanh chóng như lửa rừng, đồng thời đẩy lùi cái học "ngũ thư, tứ kinh" vào bóng tối. Thời thế tạo anh hùng. Vào đầu thế kỷ 19, những nhà Lan học lỗi lạc xuất hiện, lập trường học đào tạo nhân tài, đặt một nền tảng khoa học kỹ thuật cho cuộc vận động Minh Trị Duy Tân sau này.
Ngày nay Dejima không phải là hòn đảo nữa vì xung quanh người ta đã lấp đất lấn ra biển. Trên địa điểm cũ những ngôi nhà xưa được phục nguyên và sinh hoạt của người Hà Lan được tái hiện theo tài liệu lịch sử. Bộ sách "Giải thể tân thư" và bộ tự điển đầu tiên Nhật - Hán - Anh - Hà Lan viết bằng tay được trưng bày tại đây cho thấy sự cầu tiến và kiên nhẫn của các nhà Lan học. Trong phòng triển lãm, tôi chú ý đến cái đồng hồ quả lắc, ống nhòm thiên văn, cây súng trường, khẩu súng lục chế tạo vài trăm năm trước mô phỏng theo Hà Lan, Bồ Đào Nha, được cải thiện cho thích hợp với người Nhật Bản.
Tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi thấm sâu trong tư duy người Nhật đã giúp họ phát triển mọi mặt. Vào thế kỷ thứ 8, người Nhật Bản sang nhà Đường (Trung Quốc) du học, vay mượn Hán tự làm văn tự của mình và cách tổ chức hành chánh của triều đình nhà Đường để an bang trị quốc. Họ cải thiện Hán tự và dùng cho đến ngày hôm nay mà không mang một chút mặc cảm vay mượn. Trái lại, họ đã đóng góp rất nhiều vào việc phong phú hóa Hán tự và hội nhập văn tự này vào ngôn ngữ khoa học thế giới. Kể từ khi Lan học xuất hiện, người Nhật đã dùng tiếng Hán để dịch những từ ngữ y học, khoa học tự nhiên và nhân văn. Những thuật ngữ như: vật lý, hóa học, số học, vi phân, tích phân, phương trình, quĩ đạo, lượng tử v.v…, hay trong khoa học nhân văn: kinh tế, chính trị, dân chủ, xã hội, chủ nghĩa, cộng sản, là những từ Hán Nhật mà sau này ông thầy Trung Quốc phải vay mượn lại "học trò" Nhật để bắt kịp thế giới.
Đến tham quan Dejima, tôi thấy thêm một lần nữa tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi của người Nhật đã đưa đất nước này từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu thốn tài nguyên đến địa vị một đế quốc quân sự và sau này một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Hai ngày tại Nagasaki vẫn chưa đủ, nhưng đã đến lúc phải chia tay. Trước khi từ giã thành phố cảng lãng mạn này, tôi lững thững ra ngoài bến cảng nhìn Nagasaki lần cuối. Mây vẫn lướt thướt bay, sóng vẫn vỗ rì rào và núi vẫn sừng sững vươn lên. Một dãy sơn hà đã chứng kiến biết bao cảnh thăng trầm, biết bao tao nhân mặc khách, anh hùng hào kiệt đến đến đi đi. Ánh sáng bình minh của khoa học đã chiếu trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này và những con người Nhật Bản cầu tiến đã sớm thức tỉnh nắm bắt lấy cơ hội làm ra những trang sử oai hùng cho đất nước.
Buổi chiều hôm đó lành lạnh, có nhiều mây mù và trời lất phất mưa. Tôi bỗng chợt bâng khuâng muốn đứng giữa bến cảng êm đềm hát to bài tình ca của một thời du học, "Nagasaki wa kyo mo ame datta" (Nagasaki trời hôm nay mưa cũng đã rơi)…
2. Có một sự trùng hợp lịch sử thú vị giữa Việt Nam và Nhật Bản trong cùng một thời kỳ. Ở giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh tại Việt Nam và chúa Trịnh nắm hết quyền bính ở Đàng Ngoài biến vua Lê thành nhân vật biểu tượng, thì tại Nhật Bản chính quyền Mạc Phủ (tên chỉ một thời đại) do một Tướng quân (Shogun) cầm đầu cai trị cả nước Nhật cũng biến Thiên Hoàng Nhật thành bù nhìn. Chính quyền Mạc Phủ đi qua nhiều thời đại được truyền tay qua những Tướng quân lỗi lạc, kéo dài gần 300 năm từ hậu bán thế kỷ 16 đến Minh Trị Duy Tân năm 1867. Đây là thời kỳ hòa bình lâu dài nhất trong lịch sử Nhật Bản. Nhận thấy chính quyền Mạc Phủ không còn thích hợp với thời đại, phe bảo hoàng của các thế lực quân sự tại Satsuma-han (han: phiên, tương đương tỉnh, bây giờ là tỉnh Kagoshima, nam Kyushu), Choshu-han (tỉnh Yamaguchi, tây Honshu) và Tosa-han (tỉnh Kochi, Shikoku) liên minh làm cách mạng lật đổ chính quyền Mạc Phủ tại Edo (Tokyo), trao trả quyền lực lại cho Thiên Hoàng và mở đầu thời đại Minh Trị Duy Tân (1867). Tiếc rằng, Việt Nam không có một sự kiện tương tự.
3. Vào thời phong kiến, người Nhật cũng theo truyền thống "sĩ, nông, công, thương", nhưng "sĩ" của Nhật là giai cấp "võ sĩ" (samurai).
4. Có lẽ Nhật Bản là nước duy nhất trên thế giới có kênh truyền hình giáo dục hoạt động song song với kênh tổng hợp. Ngoài những tiết mục dạy bổ túc cho học sinh trung học, kênh giáo dục còn có những tiết mục nhân văn, xã hội, nghệ thuật, ngoại ngữ đàm thoại cho đại chúng. Hàng tháng NHK xuất bản những tập sách nhỏ giá rẻ để học viên có thể theo dõi chương trình học một cách hiệu quả.
Một ngày hạnh ngộ với Hòa Thương Thích Mãn Giác đã khắc trong lòng tôi những ấn tượng sâu đậm và những kỷ niệm khó quên. Hòa thượng Thích Mãn Giác và tôi chưa bao giờ gặp nhau nhưng đã từng biết nhau ngang qua những thông tin của giới văn nhân, nghệ sĩ hoặc các bậc tăng ni. Tôi được biết rằng Hòa thượng không chỉ là một vị cao tăng mà còn là một giáo sư lỗi lạc, một nhà thơ đã để lại nhiều bài thơ đầy Thiền vị, một người yêu chuộng văn chương nghệ thuật.
Năm 1995, tôi có dịp sang vùng California đúng mùa Phật đản. Tôi đã từng nói chuyện về những nét đặc thù của cách tán tụng kinh kệ trong truyền thống Phật giáo Việt Nam tại nhiều nơi như chùa Xá Lợi, Thiền viện Vạn Hạnh tại thành phố Hồ Chí Minh, chùa Trúc Lâm tại Villebon bên Pháp, chùa Linh Sơn tại Đài Loan … nên khi nghe tôi đến Cali, Hòa thượng Thích Mãn Giác có thư mời tôi nói chuyện về đề tài trên tại ngôi chùa Việt Nam ở Los Angeles, nơi thầy trụ trì. Tôi rất sung sướng có dịp gặp được người mà tôi ngưỡng mộ qua tên tuổi nhưng chưa từng được diện kiến bao giờ. Tôi cũng có phần ngạc nhiên và hơi e ngại vì biết rằng Los Angeles là một thành phố có nhiều người Việt tị nạn quá khích.
Hôm đó, thầy làm lễ và thuyết pháp từ sáng và đến mười một giờ. Thầy giới thiệu tôi nói chuyện về đề tài tán tụng kinh kệ trong truyền thống Phật giáo. Trong cử toạ, ngoài các Phật tử đến từ Los Angeles, Santa Ana và các thành phố lân cận, còn có ông Khai Trí, nhạc sĩ Phạm Duy và những người bạn rất quen thân với tôi. Đây cũng là lần thứ nhứt tôi nghe lời giới thiệu từ một người mới gặp tôi lần đầu mà nước mắt của tôi lưng tròng, vì không ngờ rằng người ấy biết rõ việc tôi làm và bằng lời văn chải chuốt đầy chất thơ, Hòa thượng đã giới thiệu về tôi một cách rất nồng hậu như sau:
“Cuộc gặp gỡ của chúng ta với giáo sư Trần Văn Khê hôm nay là một hạnh ngộ. Chúng ta là những đứa con Việt Nam vì hoàn cảnh phải sống tại nhiều nơi trên thế giới. Chúng ta thường tự chất vấn không biết văn nghệ nước Việt Nam như thế nào và đang đi về đâu. Thì hôm nay chúng ta may mắn gặp được một người dẫn đường đáng tin cậy sẽ đưa chúng ta một chuyến về bơi lội bao dung trong biển văn hóa nước nhà. Công trình nghiên cứu của giáo sư Trần Văn Khê đã được thế giới công nhận, chấp nhận và lưu trữ cho thế hệ mai sau. Giáo sư đã dùng ngòi bút vẽ lại trung thực nền văn hóa đó và bằng tài nghệ biểu diễn tinh vi đã cho cái hồn văn hóa lung linh trên cái xác. Một người nghệ sĩ đã dựng lại một nền văn hóa cả xác lẫn hồn là một người nghệ sĩ đích thực. Hôm nay, chúng ta không chỉ kính trọng một nhà nghiên cứu uyên thâm mà thương quí một người Việt Nam rất Việt Nam là giáo sư Trần Văn Khê.”
Cử tọa vỗ tay tán thưởng. Tôi ngỏ ít lời cám ơn Hòa thượng và nói lên nỗi xúc động của tôi rồi bắt đầu buổi nói chuyện như thường lệ. Sau đó, tôi có dành nửa giờ cho thính giả đặt câu hỏi và có mấy câu hỏi của cử tọa vô cùng lý thú mà tôi còn nhớ mãi đến ngày nay:
Một bà cụ tuổi ngoại thất tuần hỏi tôi:
- “ Kinh Phật chúng ta có thể niệm đọc, tại sao lại phải tán tụng ?”.
Tôi trả lời:
- “Trong truyền thống Phật gíao các nước châu Á, “tụng kinh” là đọc lớn lên những câu kinh với những thanh giọng trong lời kinh được cách điệu hóa và phù hợp với năm âm trong âm giai ngũ cung. Mỗi chữ trong câu kinh được đệm theo bằng tiếng mõ và có một cao độ nhất định; chỉ có những chữ thứ bảy trong một câu kinh thất ngôn thì được đệm hai tiếng mõ. “Tán” có nghĩa là khen. Một bài “tán” thường có nét nhạc đặc thù. Một chữ trong câu kinh có thể tán thành hai, ba giọng khác nhau và giữa các chữ có những chữ đệm, thường là những mẫu âm để làm cho nét nhạc và tiết tấu câu kinh thay đổi. “Tụng” và “tán” không phải để cho người nghe khen mình “tụng” giỏi “tán” hay mà để giúp cho người Phật tử nhờ nét nhạc và nhịp điệu được đi vào một trạng thái tâm hồn bình tĩnh và sáng suốt để hiểu rõ nghĩa câu kinh và thấm nhuần giáo lý. Sau đó, tôi minh họa cho bà cụ câu kinh “Dương chi, tịnh thủy” trong bài tán để ca ngợi Đức Phật Bà Quan Âm thì bà cụ nhìn nhận rằng nếu đọc thường thì không thể nào bốn chữ “Dương chi, tịnh thủy” thấm vào tâm can của bà bằng cách nghe bốn chữ đó theo lối “tán”.
Hòa thượng Thích Mãn Giác nhìn tôi mỉm cười và gật đầu. Sau câu chuyện, tôi được thụ trai với thầy tại chùa. Thầy rất vui nói với tôi:
- “Giáo sư không phải người Phật tử đi tu nhưng rất rành về các cách tán tụng. Giáo sư lại phân tích rõ ràng những nét đặc thù của tán tụng đến người thường ngày tán tụng như chúng tôi cũng thấy được cái hay và sự công dụng của tán tụng thì công việc làm đó tôi thấy rất bổ ích cho sự hiểu biết của người Phật tử.”
Tôi cũng có bạch với Hòa thượng rằng:
- “ Mặc dầu tôi không phải là Phật tử nhưng tôi rất có duyên với đạo Phật. Đề tài nghiên cứu trong đời tôi là âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung. Năm 1965, tôi có được cơ duyên viết một bài về cách tán tụng trong truyền thống Phật gíao Việt Nam để góp mặt với các loại nhạc tôn giáo khác trên thế giới trong quyển Từ điển Bách khoa về Âm nhạc tôn giáo. Sau đó, tôi có dịp sang Nam Triều Tiên (tức là Hàn quốc) và Nhựt Bổn để so sánh cách tán tụng trong truyền thống Việt Nam với phong cách “hissori” và “ chissori” của Triều Tiên và “shomyo” của Nhựt Bổn”.
Hòa thượng rất vui và nói rằng:
- “ Giáo sư không chỉ nhìn truyền thống tán tụng với đôi mắt Việt Nam mà cả với đôi mắt của con người châu Á so sánh, đối chiếu với truyền thống của nước khác để hiểu và thương thêm truyền thống của nước mình. Thất là điều đáng quí !”
Câu chuyện hôm đó không những đi trong đề tài Phật gíao mà còn mở rộng ra đến lãnh vực văn chương, thi ca và âm nhạc. Đến nay, tôi còn nhớ rõ buổi sáng ngày Phật đản năm 1995 và câu chuyện với Hòa thượng.
Tám ngày sau đó, tôi được nhiều người Phật tử hưởng ứng và mời tôi nói chuyện về đề tài này tại ngôi chùa Liên Hoa toạ lạc trong quận Cam. Nơi này xa đường xe qua lại. Buổi nói chuyện được tổ chức vào tám giờ tối, khí trời mát mẻ. Tâm của tôi và của thính giả đều được ổn định. Tôi đã được dịp giới thiệu bài Nam xuân trong nhạc Tài tử miền Nam với hai cách khác nhau: đờn cho thính giả nghe chơi giải trí và đờn với thiền vị.
Lần gặp gỡ với Hòa thượng Thích Mãn Giác cho tôi được dịp gặp một người mới quen mà hiểu nhau như người đã quen lâu. Buổi nói chuyện tại Los Angeles lại gợi cho tôi thêm nhiều đề tài suy nghĩ về cách tán tụng nhờ những câu hỏi được đặt ra và hôm đó đã gây một ấn tượng sâu sắc trong cuộc đời nghiên cứu của tôi.
Sáng nay, tôi vừa được biết tin Hòa Thượng mới viên tịch. Tôi ngồi ôn nhớ lại những kỷ niệm ngày đó và xin ghi lại nơi đây thay cho lời hoài niệm của tôi đối với vị cao tăng mà tôi kính trọng và ngưỡng mộ, và thương quí như một người tri kỷ, tri âm. Xin nghiêng mình cầu cho giác linh của Hòa thượng mau về nơi Cực lạc.
Thời thế tạo anh hùng thì cũng thời thế, cơ chế tạo ra phẩm chất người trí thức. Nói rõ hơn là hoàn cảnh chính trị xã hội, là bản lĩnh, tài năng các nhà lãnh đạo quốc gia, và một phần chính yếu, là môi trường giáo dục đương thời. Cho nên tôi rất tán thành hãy bắt đầu bằng vấn đề giáo dục để bàn chuyện xây dựng lớp trí thức mới.
Về triết lý giáo dục
Sau nhiều năm Phần Lan nổi lên với những thành thựu kinh tế, khoa học, công nghệ làm cả thế giới khâm phục, người ta phát hiện ra cái gốc của sự thịnh vượng ấy là giáo dục. Ba phần tư thế kỷ qua, nước Mỹ đã chiếm vị trí số một trên hầu hết mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ then chốt. Nếu nói trí thức là nói tài năng thì không đâu tài năng nở rộ nhiều như ở Mỹ. Nhiều người chúng ta bất bình, phẫn nộ chính đáng với một sô chính sách nước lớn có khi quá tàn bạo của giới cầm quyền Mỹ, song vẫn chưa bao giờ hết ngưỡng mộ trí tuệ và tài năng của trí thức Mỹ mà những mầm mống thịnh vượng đã nảy nở từ những đại học đầu tiên khi Mỹ mới lập quốc. Đọc thư của Tổng thống Pháp gửi các nhà giáo Pháp, đọc bài diễn văn nhậm chức của bà Chủ Tịch ĐH Harvard, càng thấy rõ vấn đề trí thức nói cho cùng là vấn đề giáo dục. Nước Pháp muốn khôi phục truyền thống văn hóa rạng rỡ của mình từ Thế kỷ Ánh sáng, nước Mỹ muốn tiếp tục dẫn đầu trong thế kỷ văn minh trí tuệ, đều thấy cần dựa vào trụ cột giáo dục. Mà trong giáo dục thì quan trọng trước hết là tư duy cơ bản về giáo dục, tức là triết lý giáo dục, đường lối giáo dục.
Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức VN qua các thế hệ, tôi vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ trước– thời kỳ Tự lực Văn đoàn, trào lưu Thơ mới, có các nhạc sĩ Văn Cao, Đặng Thế Phong, có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh...Hầu hết những trí thức này đều học trường Pháp ra, mà sao tinh thần dân tộc rất cao và năm 1945 tuyệt đại bộ phận họ đều đi theo cách mạng để chống lại thực dân Pháp. Điều đó tựa hồ mâu thuẫn với quan niệm phổ biến xưa nay là nhà trường thực dân chỉ cốt đào tạo ra những người làm tay sai cho thực dân.
Trong khi đó, các thế hệ trí thức được đào tạo sau này ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ một cách bài bản, lớn lên trong nền giáo dục thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp, hằng ngày được gián tiếp hay trực tiếp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, ghét bóc lột, xả thân vì dân vì nước... mà sao có vẻ như phẩm chất không được như ta kỳ vọng. Dường như có cái gì không thật, có cái gì chưa ổn lắm, cho nên gặp hoàn cảnh không thuận lợi thì bộc lộ nhiều nhược điểm. Chúng ta có biết bao tiến sĩ, giáo sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước hiện nay cũng có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không ít), rồi lại có cả những “bộ óc vĩ đại thế kỷ 21”, nhiều nhân vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiều bậc đại trí. Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh?
Đó là cái nghịch lý cần phân tích và lý giải khi bàn về giáo dục và đào tạo.
Riêng tôinghĩ rằng nền giáo dục, văn hóa Pháp mà thế hệ trí thức tiền bối 30-45 đã được hưởng thật sự là một nền giáo dục tiên tiến thời đó. Cái phần thực dân trong nền giáo dục ấy chỉ là cái vỏ ngoài do bọn thực dân áp đặt ở thuôc địa mà cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, còn cái phần nhân văn,cái phần văn hóa cơ bản, cái phần thật sự là tinh túy trong triết lý giáo dục của nó thời đó thì ai tiếp thu được đều tốt cho họ, cho đất nước họ, cho nhân dân họ, không cứ là cho người Pháp, cho nước Pháp. Có lẽ chính vì nhìn thấy điều ấy mà Phan Chu Trinh đã sáng suốt đề ra: hưng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Giờ đây khi mà văn hóa, giáo dục đã lệch pha quá xa với kinh tế, đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc vê đường lối, triết lý giáo dục, chứ không phải chỉ bàn chuyện nay hai không, mai năm không, v.v. Những việc này cũng cần làm để khởi động dạo đầu cho công cuộc cải cách, nhưng sa đà vào đó mà quên đi cái cốt lõi sẽ có tác dụng ngược lại.
Không thể máy móc vơ đũa cả nắm, nhưng có một sự thật là dường như phần lớn những cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều thiếu căn bản về văn hóa phổ quát. Tư duy của họ chỉ phát triển theo một đường ray mà hễ ai trật ra là nguy hiểm. Cho nên trừ những trường hợp hãn hữu, họ thường chỉ là những chuyên viên kỹ thuật được trang bị một số vốn kiến thức kỹ thuật, chuyên môn hẹp nào đó, ở thời đó, và cũng rất mau lạc hậu, nhưng thiếu một nhãn quan rộng, thiếu một tầm nhìn ra ngoài ngành nghề hẹp của mình, cho nên bị hạn chế ngay trong việc phát triển chuyên môn, và càng bị hạn chế đứng trước những vấn đề xã hội, văn hóa không thuộc phạm vi chuyên môn hẹp của mình. Mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, ít khả năng và cũng không thích thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức VN.Chưa bao giờ trong xã hội ta có nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà nhìn khắt khe môt chút để biết người biêt ta, còn hơn nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch.
Những sai lầm làm tha hóa giáo dục.
Trở lại vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất là sự tha hóa trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng nét chính của khủng hoảng ấy là sự tha hóa, biến chất. Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo dục. Có nhiều nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba sai lầm lớn mà tôi gọi là sai lầm hệ thống trong quản lý giáo dục.
1. Chính sách đối với người thầy. Đó là sai lầm đầu tiên và tai hại nhất do quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, là đúng. Nhưng từ đó đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là do tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thể nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của giáo dục mà bỏ mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái lỗi hệ thống cơ bản này.
2. Tập trung tất cả việc dạy và học vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để bảo đảm kết quả học tập vững chắc và thực chất thì dồn hết cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất hình thức mà thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN: gần thi mới lo học, học đối phó, học nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Nghĩa là tư duy có thay đổi gì đâu, hai mươi năm trời, tốn bao công nghiên cứu, cuối cùng trở lại gần như điểm xuất phát, dưới một hình thức có vẻ mới để che dấu một phương pháp cổ lỗ. Lại còn chuyện thi trắc nghiệm, thi tự luận. Người ta thi trắc nghiệm với một mục đích khác, ta không nghiên cứu kỹ, đưa ra áp dụng đại trà vào thi tốt nghiệp THPT trong khi trình độ chuyên nghiệp về kiểu thi này còn chưa bảo đảm, cho nên gây tốn kém và làm khổ cả học sinh lẫn thầy giáo. Rồi đùng một cái cấm các trường không được áp dụng hình thức trắc nghiệm khi thi học kỳ, làm cả thầy và trò hoang mang, không hiểu giáo dục là cái gì mà có thể quản lý tùy tiện như thế. Đem việc học phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ yếu, đến mức muốn hiểu thực chất giáo dục VN như thế nào chỉ cần quan sát hoạt động của nhà trường và xã hội trong mùa thi. Từ kiểu thi nhiêu khê đẻ ra những dich vụ kỳ lạ hiếm thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v. Cho nên chừng nào còn duy trì kiểu học và thi này thì xã hội còn phải trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Chưa kể nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì lãng phí lên tới con số khủng khiếp, bình thường đã khó chấp nhận, với tình hình kinh tế khó khăn như lúc này càng khó chấp nhận hơn. Nhiều nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi cử” của họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục gì.
3. Chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng,bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay với các nước trong khu vực. Đây chính là bệnh thành tích, chứ không là gì khác. Phát triển số lượng thì dễ, nhất là khi người dân còn khát học tập như trong xã hội ta. Chỉ đảm bảo chất lượng mới khó, vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ báo cáo thành tích. Trên đã vậy thì làm sao chống được bệnh thành tích ở dưới. Trong hoàn cảnh ấy mà có người còn bênh vực bệnh thành tích, viện lẽ chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là xa xỉ (!), thì thật không hiểu nổi ta muốn phát triển giáo dục và khoa học theo kiểu nào. Nguy hại là căn bệnh này nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, công nhận GS, PGS. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trình nghiên cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, đánh giá các đại học... phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ích riêng cho từng nhóm thay vì phục vụ sự nghiệp chung. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực quốc tế thể hiện trong mọi chủ trương xây dựng đại học, cho đến gần đây nhất vẫn rất chủ quan. “Điếc không sợ súng” đó là căn bệnh cố hữu của ngành giáo dục.
Tất cả các sai lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần dần biến chất, xuống cấp, xa rời tất cả những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Xu hướng tha hóa ấy phát triển có nguy cơ đẻ ra một nền giáo dục phản giáo dục.
GS Hoàng Tụy (Tạp chí Tia Sáng) http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&CategoryID=3&News=2572