Thứ Tư, 30 tháng 6, 2010

Blog 365: Một dân tộc có 2 đội bóng


Đội bóng CHDCND Triều Tiên tại World Cup 2010 - những anh hùng chiến đấu bằng cả trái tim

Có thể nói, chừng mực nào đó, bóng đá cũng góp phần thể hiện bản sắc văn hóa của một dân tộc hay một quốc gia. Tại World Cup 2010 lần này, một dân tộc có 2 đội bóng tham dự mà các cầu thủ đều là những người Cao Ly (Korea), đó là CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc.

Không phải dân tộc nào cũng vinh dự như vậy. Về khả năng chuyên môn, cho dù là những đội bóng hàng đầu châu Á, cả Triều Tiên và Hàn Quốc, thành thực mà nói, vẫn còn “dưới đẳng” so với các đội bóng hàng đầu châu Âu hoặc Nam Mỹ.

Nhưng (điều này quan trọng), về tinh thần thì không ai có thể chê người Cao Ly hay Nhật Bản được. Bởi họ luôn tự đốt cháy mình vì màu cờ sắc áo, vì tinh thần dân tộc thượng phong. Xem họ đá như là trận chiến mà ở đó tinh thần đoàn kết thành một khối khá cao. Điều đó ai cũng nhận thấy không thể bàn cãi.

Đó là các dân tộc đã biết vượt qua sự nghèo đói, chiến tranh, tài nguyên thiên nhiên thì chẳng có gì đáng kể. Nhưng họ đã biết vượt lên đống tro tàn, trở thành những con phượng hoàng cất cánh... mà cả thế giới phải công nhận. Đó là vì họ luôn biết “đốt cháy mình” với tất cả niềm kiêu hãnh, tự tôn của một dân tộc. Họ luôn biết nâng niu, trân quý với những gì cha ông để lại dù là nhỏ nhất. Và họ luôn biết nhìn lại mình bằng một tấm gương trong suốt để thấy được “Bản lai diện mục” của mình, cho dù có như thế nào...

Nhật Bản sau thế chiến thứ hai, đã làm lại tất cả trên đống tro tàn mà thành tựu ngày nay đã chứng minh điều đó.

Nhưng những con người ấy luôn biết “yêu từ một cái cây trên hè phố cho đến một hồ nước nhỏ ngoại ô, bởi họ tìm thấy những điều kỳ diệu trong mỗi con người và biết lắng nghe những điều kỳ diệu ấy...” như một tác giả đã viết..

Nguồn bài viết http://www.thethaovanhoa.vn/133N20100630072653007T0/blog-365-mot-dan-toc-co-2-doi-bong.htm

Một số bài báo về đội bóng CHDCND Triều Tiên

http://www.thanhnien.com.vn/worldcup2010/Pages/201025/20100618094431.aspx

http://bongdaso.com/WCTeamInfo.aspx?ClubID=315

http://chuyentrang.tuoitre.vn/WorldCup2010/Ban-doc-voi-World-Cup/385667/CHDCND-Trieu-Tien-va-chuyen-chang-Romeo-phai-chet.html

http://worldcup.nld.com.vn/20100610103821487p1164c1166/bac-trieu-tien-doi-bong-bi-an.htm

Thứ Bảy, 26 tháng 6, 2010

Giỗ đầu lặng lẽ NSND Phùng Há



Năm nay, nếu ko có 1 tin nhỏ trên báo Tuổi Trẻ chắc ít ai còn nhớ đến ngày giỗ tròn 1 năm NSND Phùng Há lặng lẽ chia tay cuộc đời.
Vẫn như năm trước, thông tin về cái chết của Micheal Jackson tiếp tục tràn ngập báo đài, truyền hình... mọi người ồn ào về một siêu sao bên kia bờ Đại dương thay vì tưởng nhớ vị Tổ của ngành sân khấu cải lương
Hỏi sao cải lương mất dần khán giả, hỏi sao chẳng ai đoái hoài nghệ thuật dân tộc khi giới truyền thông mải mê lạc đường....

Bạc bẽo quá tình người!
..............................
Sáng 24-6, tại chùa Nghệ Sĩ (quận Gò Vấp, TP.HCM), ban quản trị chùa đã tổ chức lễ giỗ đầu của nghệ sĩ nhân dân (NSND)Phùng Há.

Ngày giỗ của bà được tổ chức nghiêm trang và khá lặng lẽ. Ông Diệp Nam Thắng (tức bầu Xuân) - trưởng ban quản trị chùa - cho biết: “Rất nhiều nghệ sĩ yêu mến muốn cùng tổ chức một lễ giỗ rình rang cho xứng với vị thế của bà nhưng chúng tôi thực hiện theo đúng lời dặn dò của bà trước khi mất, bà muốn những ngày lễ giỗ được tổ chức một cách đơn giản, khiêm nhường và không phô trương, tốn kém!”.

Ông bầu Xuân cho biết thêm từ ngày NSND Phùng Há ra đi, các hoạt động cứu trợ vẫn được ban quản trị duy trì đều đặn theo đúng mong muốn của bà. Sắp tới, ban quản trị và các cấp lãnh đạo thành phố sẽ chính thức cho ra mắt quỹ từ thiện mang tên NSND Phùng Há nhằm san sẻ những khó  khăn với nghệ sĩ và bà con nghèo trên khắp đất nước.

http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/386317/Gio-dau%C2%A0NSND-Phung-Ha.html

Đơn giản thôi, trong suy nghĩ của bất cứ ai: NSND Phùng Há là chí tôn cao cả của tất cả những ai trong giới cải lương. Đơn giản thôi, ngày giỗ của Người chắc chắn sẽ có rất đông nghệ sĩ đến tham dự, sẽ có một chương trình văn nghệ hay một buổi lễ để tưởng nhớ đến Người, dù đơn sơ giản dị nhưng cũng sẽ rất ấm cúng, thân thương, người đến dự sẽ ngậm ngùi thương tiếc cho bà, mới đó mà đã một năm chùa NS không có hình bóng của Người…Nhưng không, một sự giản đơn, buồn tẻ làm cho người đến dự cũng thấy buồn nao nao… Đến từ sáng sớm, khi đến đây (chùa NS) đã thấy một khung cảnh đơn sơ ngay từ cái nhìn đầu tiên, cổng chính của chùa vẫn đóng kín, một điều khác thường, bởi trong những dịp quan trọng…cổng sẽ mở đón chào quan khách. Vào trong chùa, một dãy bàn đã để sẳn...chờ mãi chẳng thấy ai, nghệ sĩ đâu cả rồi, những quan khách quan trọng ở Thành Phố, ở Hội Nghệ Sỹ đâu rồi? tiếng trống chầu chùa vang lên: Con cháu, người thân đang quỳ để tụng kinh cho má Bảy.



Kết thúc tụng kinh nhìn lại có mặt của: G.S Trần Văn Khê - NS Nam Hùng – Tô Kim Hồng – Kiều Tiên – Thọai Mỹ - Thúy Uyển – NS Phượng Loan – ông Đinh Bằng Phi – SG Kiên Giang – SG Hùynh Nga và các khán giả, người thân… Tất cả cùng ra dùng bửa cơm chay, xong mạnh ai nấy ra về trong lặng lẽ…


http://www.cailuongvietnam.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=5914





Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010

Phim : Hải, hành trình của một nhạc sĩ Việt Nam

Phim : Hải, hành trình của một nhạc sĩ Việt Nam / Hai, parcours d'un musicien vietnamien sẽ được trình chiếu tại Thính đường Grande Galerie de l'Evolution, khuôn viên Jardin des Plantes, Paris, vào lúc 18h, thứ hai, ngày 21/06/2010. (Metro Gare d'Austerlitz hoặc Jussieu). Vé xem phim miễn phí, phân phát từ 17h30, ngay tại chỗ.

Sau chiếu phim, có trao đổi với nhạc sĩ Trần Quang Hải và đạo diễn Pierre Ravach.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100619-phim-hai-hanh-trinh-cua-mot-nhac-si-viet-nam

Thứ Năm, 17 tháng 6, 2010

Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010

Nhạc cụ gõ cổ nhất trong truyền thống Việt Nam

Start:     Jun 19, '10 7:30p
End:     Jun 19, '10 10:00p
Location:     32 Huỳnh Đình Hai P.24 Q.Bình Thạnh TPHCM
Chương trình sinh hoạt văn nghệ định kỳ tại tư gia GS Trần Văn Khê

Việt Nam có 2 nhạc cụ cổ xưa từ thời tiền sử đó là Trống Đồng của dân tộc Kinh ở miền Bắc & Đàn đá của dân tộc Tây Nguyên ở miền Nam

Trên thế giới chỉ vùng Tây Nguyên của Việt nam mới có những bộ "Đàn đá kêu" mà người dân tộc gọi là "Goong Lu" (tức là đá kêu như những chiếc Cồng)

Một số bộ đàn đá đã được khai quật như:
- Năm 1949, đàn đá Ndut Lieng Krak
- Năm 1979, đàn đá Khánh Sơn
- Năm 1980 đàn đá Bác Ái
- Đàn đá Bình Đa
- Đàn đá Blao
- Đàn đá Đa Long
- Đàn đá Tuy An
....

GS Trần Văn Khê thuyết trình
NSND Đỗ Lộc và NS Bích Diệp minh họa

Vay nợ ODA chừng nào mới trả xong?

hông biết do đâu, mỗi khi nói đến vay vốn ODA, mọi người thường lập luận đây là gánh nặng nợ nần mà con cháu chúng ta sẽ phải trả. Mặc dù lập luận này nhằm cảnh báo việc sử dụng vốn ODA phải thận trọng nhưng thực tế, vay vốn ODA là phải trả ngay chứ đâu đợi con cháu chúng ta trả.

Củng cố cho lập luận này là phát biểu của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng vào tuần trước: “Vay ODA thời gian vay 30-40 năm, thời gian trả nợ rất lâu, khi mình phát triển rồi thì có khả năng trả nợ.”

Nói như vậy là không chính xác, không biết báo chí có ghi nhầm gì hay không.

Một dự án vay vốn ODA thường có ba giai đoạn. Giai đoạn giải ngân và triển khai dự án, dài ngắn khác nhau. Giai đoạn ân hạn, thường kéo dài 10 năm, có thể bắt đầu tính từ lúc giải ngân hay lúc hoàn thành dự án, tùy thu xếp (gọi là ân hạn vì trong giai đoạn này, chỉ phải trả lãi cho khoản đã vay chứ chưa phải trả vốn). Giai đoạn hoàn trả cả vốn lẫn lãi, nếu thời gian cho vay 30, 40 năm có nghĩa là 30, 40 năm phải trả cho xong, cả vốn lẫn lãi chứ không phải 30, 40 năm sau mới bắt đầu trả nợ.

Theo báo SGTT, trích nguồn từ Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội thì để trả nợ gốc và lãi tính riêng cho các khoản vay ODA ưu đãi, ngân sách sẽ phải chi 70.250 tỉ đồng trong năm 2010 (gần 3,7 tỷ đô-la), tăng cao so với 58.800 tỉ đồng năm 2009 và 51.200 tỉ đồng năm 2008.

Như vậy hiện nay khoản tiền trả nợ, cả lãi lẫn gốc hàng năm là rất lớn chứ đâu phải chờ đến 30, 40 năm sau mới trả như thường bị hiểu nhầm.
Nguồn: Blog Nguyễn Vạn Phú
http://nguyenvanphu.blogspot.com/2010/06/vay-oda-en-30-40-nam-sau-moi-tra-no.html

Chủ Nhật, 13 tháng 6, 2010

Lời vàng của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Từ blog BS Lê Đình Phương


Bạn tôi là một Phật tử. Cách đây không lâu, chị gởi cho tôi một email rất phấn khích, mà nội dung chủ yếu là khoe đạo Phật của chị được Liên Hiệp Quốc chọn là tôn giáo tốt nhất thế giới.

Chặc lưỡi một cái, cũng không buồn kiểm chứng tính xác thực của nguồn tin này. Nghĩ thầm: Ủa, tôn giáo mà cũng tranh hơn thua nhất nhì ba tư sao? Đạo nào mà cũng tranh ngôi quán quân, e rằng thánh chiến xảy ra như cơm bữa quá (?). Nhưng vì lịch sự, reply chúc mừng bạn một cái cho phải đạo. Gác chuyện qua một bên. Còn chị bạn tôi thì chắc đến giờ vẫn sung sướng với cái tin kia.

Tình cờ đọc được đoạn đối thoại này, cũng không có thì giờ truy nguyên từ gốc. Xin copy lại như một lời chia sẻ rất chân thành với bạn. Và cũng để bày tỏ lòng ngưỡng mộ và kính trọng với tất cả các tín hữu hành đạo và khu xử theo điều thiện một cách âm thầm mà không màng đến bất kỳ bảng xếp hạng nào.

_______________________________________________________________________________________

Đây là một mẩu đối thoại ngắn giữa thần học gia người Brazil, Leonardo Boff, và Đức Đạt Lai Lạt Ma .

Leonardo là một trong những người cải cách Thần học Giải phóng.



Tại một cuộc hội thảo bàn tròn về tôn giáo và tự do có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài, vừa tinh nghịch vừa tò mò:

Thưa Ngài, tôn giáo nào tốt nhất?”

Tôi nghĩ Ngài sẽ nói:“Phật giáo Tây Tạng” hoặc “Các tôn giáo phương đông, lâu đời hơn Kitô giáo nhiều”

Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi…

Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.

Ngài trả lời:

Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng Tối Cao nhất.

Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn.”

Để dấu sự bối rối của tôi trước một câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi:

Cái gì làm tôi tốt hơn?”

Ngài trả lời:

Tất cả cái gì làm anh biết thương cảm hơn, biết theo lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, có trách nhiệm hơn, có đạo đức hơn.”

“Tôn giáo nào biến anh thành như vậy là tôn giáo tốt nhất.

Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác:

Anh bạn ơi, tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh hoặc anh có ngoan đạo hay không.

Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng, và đối với thế giới.”

Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta.”

“Quy luật của hành động và phản ứng không chỉ dành riêng cho vật lý. Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người.

Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.”

“Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy.

Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta mong muốn cho người khác. Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh. Đó là vấn đề lựa chọn.”

Cuối cùng Ngài nói:

“Hãy suy tư cẩn thận vì Tư Tưởng sẽ biến thành Lời Nói.

Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời Nói sẽ biến thành Hành Động.

Hãy hành xử cẩn thận vì Hành Động sẽ biến thành Thói quen.

Hãy chú trọng Thói Quen vì chúng hình thành Nhân Cách.

Hãy chú trọng Nhân Cách vì nó hình thành Số Mệnh,

và Số Mệnh của anh sẽ là Cuộc Đời của anh

Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự Thật.”


..................................................

Trong một cuộc phỏng vấn khác với Dr.Howard Cutler, tác giả cuốn The Art of Happiness, khi được hỏi về sự khác biệt mà các tôn giáo tạo ra trong đời sống của mọi người, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận định rằng:

"Nếu theo dõi cuộc sống mỗi ngày của một người Phật Tử chân chính,một con chiên Thiên Chúa ngoan đạo & một tín đồ Hồi Giáo lương thiện. Bỏ qua những biểu hiện mang tính hình thức tôn giáo ra tôi nghĩ chúng ta khó mà phân biệt được sự khác nhau giữa họ."


Nguồn: http://drnikonian.wordpress.com/2010/06/10/l%E1%BB%9Di-vang/

Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2010

Một thoáng Osaka - Nghĩ về thái độ vô cảm ở VN


Tác giả: GS Nguyễn Văn Tuấn

Một trong những “đặc quyền” của giới làm khoa học là được đi đây đi đó, chẳng những chỉ để tiếp thu và trao đổi ý tưởng với đồng nghiệp, mà còn có cơ hội biết thêm một nền văn hóa khác. Đã từ lâu tôi mong ước được dịp ghé thăm nước Nhật, một quốc gia với nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, xứ sở của hoa anh đào; và cũng là nơi tôi có nhiều bạn bè, đồng nghiệp. Đầu năm nay, dịp may đó đã đến: một hiệp hội chuyên môn quyết định tổ chức hội nghị khoa học thường niên ở Osaka, thành phố lớn thứ hai ở Nhật. Thế là tôi có cơ hội làm một chuyến đi với hai chuyện: vừa thực hiện được “mộng ước” chu du, lại vừa có dịp đi làm việc.

Ngắm Nhật…

Chuyến bay mang danh nghĩa Qantas của Úc với mã số QF-373, nhưng trong thực tế do Hãng Hàng không Nhật, Japan Airlines (JAL), đảm nhiệm. Tôi cảm thấy như mình bị Qantas “bán cái” cho JAL, và trong thâm tâm không hài lòng mấy với cách tổ chức này. Thế nhưng có người bạn cho tôi biết đó là một hình thức “Shared flight”, tiết kiệm xăng dầu, và đôi bên (Qantas và JAL) cùng có lợi. Chẳng phải chỉ có giữa Qantas với JAL, mà ngay cả giữa Qantas với Vietnam Airlines cũng có một hợp đồng như thế. Thời đại “rational economics” có khác!



Ấn tượng của tôi về Hãng Hàng không JAL là tiếp viên phục vụ (toàn phụ nữ trẻ, nhìn ai cũng giống ai, chắc là do việc bảo tồn gen của họ quá cao!) vừa xinh gái, vừa cực kỳ lịch sự với hành khách. Tự dưng tôi làm một so sánh với tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines và phải ngậm ngùi mà nhận xét rằng tiếp viên của ta còn phải học thêm về tính lịch sự với hành khách.

Về thức ăn trên chuyến bay, JAL chỉ có một món duy nhất: đó là gà rô-ti mà tôi chẳng muốn nhìn đến, chứ nói gì đến ăn (Có ai thích những món ăn trên máy bay với những cái tên nghe rất kêu, nhưng thực tế thì hỡi ơi… phũ phàng làm sao!). Phần lớn các tiếp viên phục vụ nói được tiếng Anh, nhưng khá hạn chế. Tôi nghĩ khả năng tiếng Anh của họ không hơn, nếu không muốn nói là kém hơn, tiếp viên Việt Nam. Có khi họ nói mà tôi phải khá vất vả mới hiểu họ nói gì; ngược lại, họ cũng phải kiên nhẫn để nhìn tôi nói với tay lẫn chân thì họ mới hiểu tôi muốn gì. Sự hạn chế về tiếng Anh còn biểu hiện qua một số biển hiệu trong máy bay. Chẳng hạn như trong một phòng vệ sinh họ đề hàng chữ “Please do not throw foreign articles to the toilet” (“Làm ơn đừng vứt những đồ xa lạ vào bệ xí”)! Chữ “foreign” ở đây rất lạ và không phải là cách nói của người Anh, Mỹ!



Sau gần 10 giờ bay, máy bay bắt đầu hạ cánh xuống Phi trường Quốc tế Osaka/Kansei. Lúc đó là 10 giờ đêm, nên chẳng thấy gì phía ngoài, mà chỉ toàn biển với nước mênh mông. Sau này tôi mới biết phi trường xây ngoài biển, cách đất liền đến 5 hay 6 cây số. Nối giữa đất liền và phi trường là một xa lộ xây trên mặt biển, như hai cây cầu vĩ đại. Nhìn phi trường như một tòa nhà vĩ đại trên biển này, tôi chợt chạnh lòng nghĩ chả biết bao giờ Úc mới có một phi trường như thế (Ở Úc, 20 năm về trước tôi đã nghe giới chính khách Úc nói đến xây một phi trường quốc tế, và nay hơn 20 năm sau, họ vẫn còn đang … nói!). Bạn tôi nói Nhật đang chuẩn bị xây một phi trường như thế (trên biển) tại một thành phố khác ở Nhật.


Vào phía trong phi trường thấy vắng tanh. Nhân viên hải quan làm việc một cách uể oải. Thủ tục hải quan tương đối gọn, và an ninh cũng không quá nặng nề như các phi trường ở Mỹ hay Úc sau ngày 11.09.01. Họ chẳng nhìn chứ nói gì đến xét hành lý! Cô nhân viên hải quan chỉ hỏi tôi một câu cho lấy lệ: “You come from Autralia?” (Ông đi từ Úc đến đây à?). Và thế là tôi ra ngoài phi trường... Lúc đó là khoảng 10giờ30 tối. 




Phố đêm Osaka

Ở ngoài phi trường, tôi lại phải đối phó với vấn đề bất đồng ngôn ngữ. Tôi tìm xe để đi về khách sạn, nhưng chẳng thấy xe taxi đâu cả. Hỏi nhân viên chung quanh thì ai cũng... cười trừ (vì họ không hiểu tiếng Anh và tôi thì mù tịt tiếng Nhật). Nhìn lên các bảng hiệu thì 80% là tiếng Nhật. Tôi than thầm trong bụng: ôi, chả lẽ số mình phải ngủ bờ ngủ bụi tại đây đêm nay sao?!... Nhưng may quá, tôi xông xáo đi hỏi tứ tung thì cũng gặp một hành khách biết tiếng Anh. Anh này chỉ cho tôi cách bấm cái máy tự động chết tiệt kia (toàn tiếng Nhật) để mua vé đi về khách sạn ở trung tâm thành phố. Thực ra, không cần taxi, vì cứ 10 phút thì có một chuyến xe bus (mà họ gọi là “Bus limousine”) rời phi trường đi về thành phố.

Khi lên xe bus, tôi nghe lời hướng dẫn tự động (bằng tiếng Anh!) là hành trình từ phi trường về trung tâm Osaka khoảng 14 phút. Tôi chuẩn bị tinh thần để về khách sạn, nhưng 20 phút, 25 phút, 30 phút… trôi qua, mà xe vẫn chạy bon bon trên xa lộ! Tôi tưởng mình nghe nhầm (tôi nghĩ chắc có vấn đề phát âm ở đây: 14 và 40 rất dễ bị nhầm!). Đến 60 phút sau thì xe bus mới dừng ở bến xe trung tâm Osaka. Trên đường xe chạy, tôi để ý thấy hai bên đường nhiều building mà trong đó vẫn thấy người cặm cụi làm việc ở văn phòng (nên nhớ lúc đó là gần 11 giờ tối). 




Từ bến xe trung tâm Osaka tôi phải tìm taxi đi về khách sạn. Thấy taxi đậu đầy đường, và tài xế người nào cũng mặc veston màu đen, đeo găng tay màu trắng. Khi lên một chiếc taxi, tôi chỉ cho ông tài xế cái tên khách sạn. Ông ta nhìn tôi thân mật và nói tiếng Nhật xí xô xí xào một hồi, tất nhiên là tôi chẳng hiểu gì. Tôi nói lại bằng tiếng Anh: “Tôi muốn đi đến khách sạn này”, và tay chỉ vào tên cái khách sạn trên tờ giấy in ra từ email. Mặc cho tôi nói tiếng Anh, ông trả lời bằng tiếng Nhật. Lại một tràng xí xô xí xào và quơ tay. Nhưng nhìn qua ánh mắt ông, tôi thấy ông ta có vẻ miễn cưỡng chở tôi. Tôi hơi ngạc nhiên, chẳng lẽ ông ta không thích tôi. Nhưng tôi thì kiên trì đòi đi, và có lẽ vì quá chán với cái ông khách quái gở(!) này, nên ông ta cũng chịu chở tôi đi. Chỉ độ 3 phút sau tôi đã đến khách sạn, và chi phí chỉ 60Y, nhưng cộng với chi phí “background” (chi phí cơ bản) là 660Y, tôi phải trả 700Y, tức gần 10 đô-la Úc. Bây giờ thì tôi hiểu sự miễn cưỡng của ông tài xế (và hối hận khi có ý nghĩ ông ta không thích mình), vì ông không muốn tôi tốn đến 700Y cho một chuyến đi mà tôi nên đi bộ! Ôi, thật là bất đồng ngôn ngữ cũng hao tổn túi tiền như bỡn. 


Nhận phòng khách sạn xong đã hơn 11 giờ rưỡi tối. Vì tính ham vui và thấy phố xá vẫn còn đông người, tôi liền xuống đường nhập với đám đông đi dạo phố. Trời gần nửa đêm mà ngoài đường người ta đi lại vẫn đông. Nhiều người, phần lớn là đàn ông, hình như là vừa xong nhiệm sở, và vào nhà hàng ăn uống, phì phèo thuốc lá tứ tung. Tôi lang thang hết đường này sang phố khác, khám phá, mạo hiểm, chụp hình, nhìn, nghe... Nói chung đường phố Osaka chật hẹp, xe đông, nhưng phong cách lái xe không có vẻ “lưu manh” như ở Sydney hay ở một vài thành phố bên Mỹ. Thời tiết lúc đó tương đối ẩm, nhưng không quá ẩm ướt như ở Thái Lan hay Việt Nam.

Cuối cùng thấy đói bụng, tôi mạo hiểm vào một quán nhỏ tí tẹo, chỉ vừa cho 6 người ngồi là cùng, nhưng phần trên lầu chắc rộng hơn. Phía ngoài quán có một cô và một thanh niên khi mới gặp tôi đã gập lưng chào và nói những câu gì nghe như “hự hự” mà tôi đoán chắc có nghĩa “Chào mừng khách”. Phía trong quán, người đầu bếp, đầu quấn khăn màu đen, chân đi đi lại lại nhanh nhẹn, tay làm “phù phép” những cọng mì, còn miệng thì cứ như là hò hét gì đó. Nhìn thấy tôi vào, anh chàng đầu bếp nói một tràng tiếng Nhật (mà nhìn qua ánh mắt tôi nghĩ anh ta đang chào đón tôi). Với ngôn ngữ múa tay, và nụ cười trừ, tôi cũng kêu được một lon bia và món xào bắp cải, rồi một mình nhâm nhi. Hai anh chàng Nhật ngồi bên cạnh, với dáng dấp công chức hay quan to, nhìn tôi mỉm cười một cách thân thiện, nhưng chả nói năng gì được. Cũng là một kinh nghiệm thú vị.

Về đến khách sạn, tôi mới để ý thấy căn phòng 200 đô-la một đêm này thật là chật chội! Chỉ một cái giường nhỏ vừa đủ cho một người ngủ, một cái bàn vừa đủ để cái ti-vi 19 inch, một cái ấm điện nấu nước, và một vài cái ly để uống trà là gần hết chỗ. Cái bàn viết nhỏ tí tẹo, mà chỉ cần đặt cái máy vi tính notebook của tôi lên cũng đã chiếm hơn phân nửa! Vào thám hiểm cái phòng tắm và toilet thì nó còn chật chội hơn nữa! Chật đến nỗi khi ngồi xuống không ngọ ngoạy chân gì được cả. Tuy chật chội thế, nhưng tất cả đều cực kỳ sạch sẽ và ngăn nắp. Tôi thầm bực mình là cái khách sạn như thế này mà tốn đến 200 đô la Úc ư, ở Việt Nam với giá này thì chắc phòng tiện nghi gấp trăm lần. Thôi, biết nói gì đây, mình chỉ ngủ ở đây vài đêm thôi mà, có ăn đời ở kiếp gì đâu mà phải bực mình cơ chứ!

Sáng hôm sau, thức sớm đi họp. Cuộc họp kỳ này chỉ thu hút khoảng 1200 đồng nghiệp từ khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam (Con số dự trù là khoảng 2000 người). Ngoài hành lang, có người cho rằng vì Nhật ở xa quá, nên các đồng nghiệp từ Âu châu và Mỹ châu vắng mặt khá nhiều. Nhiều công ty thuốc và công ty công nghệ y học cao của Mỹ và Âu châu cũng vắng mặt (Tuy nhiên, các công ty lớn như MSD, Eli Lilly, Norvatis đều có quầy hàng). Hầu hết các báo cáo của Trung Quốc đều không có ai trình bày, vì chẳng có phái đoàn nào từ Trung Quốc cả! Cũng chẳng thấy báo cáo nào từ Việt Nam. 



Một ngày dài họp hội qua đi. Tối lại, Ban tổ chức có một buổi khai mạc chính thức cho cuộc hội nghị 5 ngày này. Họ cho mời một đoàn múa truyền thống đến biểu diễn trong ngày khai mạc hội nghị. Đoàn múa gồm nam và nữ; nam thì đầu quấn khăn, mặc quần ngắn; nữ thì đội nón dẹp (cạnh nhọn vút trên không) và mặc áo giống như áo người nông dân Trung Quốc hay mặc. Đoàn múa còn có một ban nhạc gồm khoảng chục người. Họ đánh trống, thổi kèn inh ỏi. Điệu múa lúc chậm, lúc nhanh, lúc dồn dập, lúc khoan thai…Hình như diễn viên trình bày một hoạt cảnh nông dân trong xã hội Nhật khoảng trăm năm về trước. Nói chung, tôi không thấy có gì đặc biệt.

Đêm sau là “Japanese Night”, hay “Nhật Dạ”, tức là dành cho Ban tổ chức phô trương văn hóa ẩm thực của người Nhật. Họ mời tất cả các tham dự viên đến một nhà hàng rất lớn ở ngoại ô Osaka để thưởng thức các món ăn Nhật. Những món thịt nướng, rong biển, tofu, bún, mì, v.v... được trưng bày khá đẹp mắt, nhưng thử thức ăn để biết thôi, chứ nói là ngon thì chắc tôi tự dối lòng. Sau ăn uống là một màn trình diễn múa. Lần này họ mời một đoàn nghệ thuật trình diễn hai màn múa rắn và múa cá, kể lại một truyền thuyết về một chàng hiệp sĩ múa kiếm giết con rắn ác ôn chuyên vào làng ăn sống các thiếu nữ. 




Một đêm, tôi được mời đến nói chuyện tại bộ môn Nội tiết học thuộc khoa Y của Đại học Osaka, mà ấn tượng về các nhà khoa học Nhật còn lại trong tôi rất lâu. Buổi nói chuyện diễn ra sau hội nghị, tức khoảng 8 giờ tối, ấy thế mà rất nhiều nhà nghiên cứu, giáo sư và sinh viên tham dự. Nhìn qua hội trường với cả 100 người quả thật làm tôi xúc động, bởi vì nếu ở Úc giờ này chẳng còn ai trong phòng thí nghiệm, nói gì đến các giáo sư! Sau buổi nói chuyện là những trao đổi hào hứng, sôi nổi nhưng lịch sự. Chưa hết, ban tổ chức còn mời tôi đi tham quan một vòng cơ sở nghiên cứu trước khi ra quán ăn và… tranh luận tiếp! Tôi quả thật quí trọng các đồng nghiệp này vì thái độ học hỏi, tinh thần cầu tiến thật sự, chứ không hình thức như ở nước ta.

Lịch sự và rất tận tâm, tận tình

Một tuần ở Osaka, có dịp đi chung quanh thành phố và ngoại ô đã cho tôi một ấn tượng rất tốt đẹp về người Nhật. Họ có vẻ rất sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khó khăn. Một hôm tôi đi lạc đường (đường phố ở Nhật dĩ nhiên là viết bằng tiếng Nhật rất khó đọc), giữa đám đông người qua kẻ lại, tôi chẳng biết hỏi ai, đành liều hỏi… bất cứ ai đi ngang. Ấy thế mà người tôi hỏi đầu tiên, dù đang tất tả đi như chạy, dừng lại lắng nghe tôi (mà tôi biết anh ta cũng không hiểu tôi nói gì) nhưng qua bản đồ anh ta biết tôi muốn đi đâu; anh ta dẫn tôi đến tận đầu đường và cặn kẽ chỉ hướng đi, thậm chí đứng chờ xem tôi đi có đúng hướng không! Ôi, làm sao ở Mỹ và Úc, thậm chí tại quê hương Việt Nam, tôi có một người chỉ đường tốt như thế! Không chỉ người đi đường, mà ngay tại các trạm xe điện, người Nhật cũng tỏ ra rất lịch sự và rất tận tâm, tận tình chỉ dẫn cho những khách như tôi. Âu đó cũng là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử mà chúng ta cần phải học từ họ.

Nói về sự hiện đại của hệ thống xe điện của Nhật, tôi chỉ có thể mô tả bằng hai chữ: tuyệt vời. Thật vậy, so với Úc, hệ thống xe điện của Nhật chắc phải đi trước cả 20 năm. Điều làm tôi ấn tượng nhất là dù hệ thống xe điện chằng chịt dưới lòng đất như thế, mà xe chạy rất đúng giờ (chứ không phải như ở Úc: 95% xe điện Úc trễ giờ). Tôi nghĩ cũng là yếu tố con người cả thôi. Quả vậy, tôi thấy thái độ làm việc của người Nhật, từ hàng giáo sư, khoa học gia đến người lái xe điện và người phu quét đường, tất cả đều có vẻ nhận lãnh trách nhiệm của mình một cách nghiêm chỉnh, làm đến nơi đến chốn. 



Khi còn ở khách sạn, mỗi buổi ăn sáng tôi nhìn ra đường phố và chú ý đến một ông phu quét đường mà ấn tượng đẹp về ông tôi vẫn còn giữ mãi. Cứ mỗi sáng, đúng 7 giờ, không biết từ đâu ông đi xe đạp đến, dựng xe đạp vào một nơi dành cho xe đạp xong, ông bắt đầu làm việc. Mà đường xá bên Nhật thì quá sạch, chẳng có gì để ông quét dọn. Ấy thế là ông đi chầm chậm xem xét từng ngõ ngách có gì dơ bẩn không, có bao cao-su nào rớt không, có dấu kẹo sing-gum không…và làm sạch tất cả. Xong một đoạn đường, ông lại đến một đoạn đường khác và làm sạch đường. Nhìn qua thái độ làm việc, ông quả là một người yêu việc làm của mình, tự hào vì thành tích của mình, chẳng hề lộ vẻ đau khổ hay tự ti gì cả. Thật là đáng khâm phục! 




Ngẫm ta…

Chỉ một tuần ở Nhật làm tôi suy nghĩ nhiều về những kinh nghiệm cá nhân ở quê nhà. Báo chí trong nước gần đây có một cụm từ rất hay để mô tả một cái tính rất mới của các nhân viên Việt Nam: vô cảm. Sự phổ biến của tính vô cảm này cực kỳ sâu rộng trong xã hội Việt Nam ngày nay. Đi đến đâu cũng thấy và gặp: nhân viên bán hàng, cán bộ nhà nước, y tá, nhân viên bệnh viện, nhân viên hành chính trong các đại học, v.v… đều biểu hiện thái độ vô cảm, dửng dưng trước khó khăn của khách hàng.

Tôi có nhiều kinh nghiệm về cái tính này, và xin kể ra đây hầu các bạn. Một hôm tôi vào nhà sách Nguyễn Huệ trên đường Nguyễn Huệ ở Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua cuốn sách của tôi cho vài bạn bè. Tôi biết rõ nhà sách có bán sách của tôi, nhưng không biết khu nào. Tôi bèn hỏi cô bán hàng đang xớ rớ trong một quầy sách và hỏi (cho chắc ăn) ở đây có bán cuốn sách đó không. Chẳng cần suy nghĩ, và chẳng cần đi tìm, cô ấy trả lời ngay: không. Tôi nài nỉ cô thử đi tìm xem có không. Cô ta quả quyết là không. Thế nhưng khi tôi đi tìm vài chỗ thì có ngay cuốn sách.

Một hôm khác, tôi có hẹn với một anh bạn là bác sĩ trưởng khoa một bệnh viện lớn tại thành phố Hồ Chí Minh. Đến bộ môn, loay hoay tìm hoài không thấy, tôi đành phải hỏi một anh nhân viên có vẻ rảnh rỗi (vì anh ta đang chơi games trên máy computer) là có bác sĩ X ở đây không. Anh ta quay lại nhìn tôi một hồi rồi nói: em không biết anh ơi, em chỉ làm hạch toán thu ngân thôi. Tôi nói bác sĩ làm ở khoa này, anh làm ơn hỏi ai xem có anh ấy ở đây không. Trước sự khẩn khoản của tôi, anh ta vẫn thản nhiên nói: em không biết. Sau một hồi gọi điện thoại tôi mới biết văn phòng anh bạn tôi chỉ cách phòng anh chàng thu ngân kia không đầy 5 thước! Khi đã vào và đi ngang chỗ anh chàng thu ngân đó, tôi chẳng thấy anh ta tỏ một thái độ “ăn năn hối lỗi” nào cả. Đúng là vô cảm!



Một hôm tôi chứng kiến một cảnh rất “gai mắt” tại cổng trường Đại học Bách khoa TPHCM. Dưới cái nắng gắt mùa hè Sài Gòn, một anh công nhân nhễ nhại mồ hôi đẩy chiếc xe thủ công chở một đống sắt nặng nề vào cổng trường. Cổng đóng kín. Ba nhân viên bảo vệ đứng đó hút thuốc thơ thẩn nhìn anh công nhân, lúc này đang giơ tay ra dấu xin mở cổng. Cổng vẫn đóng kín. Anh công nhân phải khó nhọc lắm để xuống xe và đến gần nói gì đó xin phép mở cổng. Lúc này, một anh bảo vệ mới kéo lê bước chân đến mở cổng!

Bất cứ ai từng quen sống tương trợ với nhau, và quen với tinh thần thông cảm cho người khó khổ đều rất phẫn nộ trước thái độ vô cảm này. Tôi cũng là một người chịu không nổi thái độ đó nên mới có lần đã nói thẳng rằng tôi không thích thái độ, mà tôi cho là bất nhẫn, của một anh bảo vệ. Tất nhiên, tôi phải gánh chịu những hậu quả bất hợp tác sau này của anh chàng bảo vệ ấy, nhưng tôi không hề thấy hối tiếc về cách tỏ thái độ của mình.

Tôi có một nhận xét chung là thái độ vô cảm thường thấy trong những người có chút chức quyền, như nhân viên bảo vệ, cán bộ công nhân viên nhà nước, những người mà Cụ Hồ thường gọi là “đầy tớ của dân”. Ngày nay, họ chẳng phải là “đầy tớ của dân”, mà là “người đầy khổ dân chúng”. Họ ỷ có chút quyền thế trong tay và ra sức biểu dương quyền lực bằng những bắt chẹt nhỏ nhặt, bắt bẻ từ lời ăn tiếng nói của người dân, và đáng kinh tởm hơn là họ không cảm thấy thông cảm với nỗi khổ của người dân đang rất cần đến dịch vụ của họ. “Vô cảm” quả thật là một cụm từ cực kỳ thích hợp cho những trường hợp này. 




Có thể gọi vô cảm là biểu hiện của hiện tượng mà báo chí gọi là “suy đồi đạo đức” không? Cũng có thể lắm. Nó cũng có thể chính là hệ quả của một nền giáo dục ngày càng đặt nhẹ vấn đề đạo đức xã hội trong giáo dục học đường. Bất cứ lý do gì và nguyên nhân nào, thái độ vô cảm là một tình trạng gây nhức nhối, một căn bệnh “ung thư” đạo đức xã hội cần phải được điều trị ngay.


Tôi lạm nghĩ ở mức độ cá nhân, người Nhật cũng chẳng sáng dạ hơn chúng ta, nhưng ở mức độ tập thể họ rõ ràng là một sức mạnh đáng kể. Và trong tập thể đó, nếu tất cả thành viên trong xã hội đều làm tốt công việc của mình được giao và đối xử với nhau bằng cái tình (Trịnh Công Sơn từng nói một câu chí lý: “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”) thì guồng máy xã hội chắc chắn sẽ vận hành tốt. Có lẽ nét văn hóa làm việc này đã đưa Nhật thành một cường quốc như ngày nay. Chúng ta cũng có thể học nét văn hóa đó của người Nhật, mỗi người một việc và làm tốt việc của mình, để góp phần nâng cao tầm vóc nước ta cho xứng đáng với tiềm lực của con người Việt Nam.


Bài đã đăng trên Người viễn xứ 2008

http://nguyenvantuan.net/misc/9-misc/729-mot-thoang-osaka-nghi-ve-thai-do-vo-cam-o-vn-


“Đại phẫu” giáo dục đại học



Harvard University

Các đại biểu Quốc hội thể hiện sự quan tâm đặc biệt khi thảo luận về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học. Giáo dục luôn là nỗi ưu tư chung của cả xã hội.

Hầu hết các ý kiến đều cho rằng, việc quản lý thành lập trường đại học quá lỏng lẻo, trường nhiều nhưng thiếu cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên mỏng không đáp ứng yêu cầu. Đại biểu Huỳnh Nghĩa (Đà Nẵng) than: “Sao một đất nước học trò nổi tiếng thông minh, cần cù; một đất nước mà gia đình nào cũng sẵn lòng nhịn ăn cho con đi học; một đất nước nghèo mà dám đầu tư cho giáo dục 20% GDP mà vẫn chưa có trường đại học lọt vào top 200 thế giới?”.

Thứ bậc 200 trên thế giới chưa thể là hiện thực một khi không có sự thay đổi từ triết lý giáo dục. Đào tạo đại học với những thứ đã lỗi thời, nặng tuyên truyền, thiếu khoa học thì không thể đuổi kịp thiên hạ. Không ai dám đứng ra đề nghị vứt bỏ đi những  thứ đã lỗi thời đó để thay vào những cái mới, có ích cho sự phát triển nhận thức và trí tuệ của con người hơn.

Trường đại học mọc lên như nấm, chất lượng đào tạo kém, nhưng không ai chịu trách nhiệm, không cá nhân nào bị kỷ luật. Những người đứng ra thẩm định để cho mở trường đại học đều có tên tuổi rõ ràng, nhưng khi đụng đến sai phạm thì đổ cho một tập thể vô hình. Tập thể đó không có tên, không có chữ ký nên không phải chịu trách nhiệm.


Xã hội có sự chọn lựa khôn ngoan theo tiêu chí chất lượng sản phẩm, trong giáo dục cũng vậy. Sản phẩm giáo dục đại học của VN chất lượng quá thấp thì người dân phải tìm nơi khác.
 
Đó là câu trả lời tại sao ngày càng nhiều người  tìm cách cho con đi du học. Những người có trách nhiệm về đào tạo đại học suy nghĩ gì khi người dân của mình không có niềm tin về giáo dục đại học trong nước, có thấy tiếc cho đồng tiền dành dụm của dân mình lại mang đi làm giàu cho các nước? Nghĩ rồi lại thấy ngậm ngùi, họ lấy được tiền của dân mình vì họ dạy dỗ con người hay hơn và giỏi hơn mình.

Chất lượng đào tạo đại học thấp là một vấn đề lớn của VN. Đó là một thực tế không thể né tránh, phải đối diện với sự thật đó, tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém và đưa ra biện pháp khắc phục. Đó là cách duy nhất để cải thiện bộ mặt đại học VN.

Lê Chân Nhân

http://www.laodong.com.vn/Home/Dai-phau-giao-duc-dai-hoc/20106/187338.laodong

GS Nguyễn Văn Tuấn: Thư gửi Bộ Y tế Úc xin viện trợ Vaccine phòng covid

 Ngày 26-7-2021 Hôm nay nhận được một lá thư từ Bộ Y tế Úc, với một chút hi vọng về chuyện vaccine. (xem thư đính kèm email) Các bạn có lẽ c...